CÁC ĐỀ ÔN TẬP CÓ HƯỚNG DẪN

<Trở về trang Ngữ văn>

Phần 1

Nội dung bài giảng hôm nay về Văn học lãng mạn và hiện thực phê phán 1930-1945:
Mời bạn BẤM VÀO ĐÂY để theo dõi nội dung hướng dẫn thực hiện 14 đề:
– Đề 1: Đây mùa thu tới (Xuân Diệu)
– Đề 2: Tràng giang (Huy Cận)
– Đề 3: Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử)
– Đề 4: Tống biệt hành (Thâm Tâm)
– Đề 5: Phân tích bức tranh phố huyện nghèo trong truyện ngắn Hai đứa trẻ (Thạch Lam)
– Đề 6: Phân tích tâm trạng chị em Liên đêm đêm cố thức để được nhìn chuyến tàu đi qua phố huyện (Hai đứa trẻ – Thạch Lam)
– Đề 7: Phân tích tấn bi kịch của người trí thức nghèo trong xã hội cũ qua nhân vật Hộ trong truyện ngắn Đời thừa của Nam Cao.
– Đề 8: Phân tích nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao để làm nổi bật bi kịch cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo
– Đề 9: Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo.
– Đề 10: Chí Phèo tỉnh – Chí Phèo không say
– Đề 11: Phân tích nghệ thuật trào phúng trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia (Số đỏ – Vũ Trọng Phụng)
– Đề 12: Phân tích nhân vật Xuân Tóc Đỏ trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng.
– Đề 13: Những giá trị tư tưởng và nghệ thuật của thơ lãng mạn qua một số tác phẩm của Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử thời kỳ 1930-1945.
– Đề 14: Giá trị tư tưởng và nghệ thuật của đoạn văn tả cảnh ông Huấn Cao “cho chữ” trong nhà giam (truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân). Vì sao tác giả cho đó là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”?

Phần 2

Nội dung bài giảng được trình bày theo trình tự sau:

Tố Hữu – cuộc đời và sự nghiệp sáng tác Bấm vào đây để xem

I. Ở Tố Hữu có sự thống nhất chặt chẽ giữa nhà cách mạng, nhà chính trị và nhà thơ.
II. Những nét phong cách cơ bản của thơ Tố Hữu:
III. Những nét phong cách của thơ Tố Hữu nó đều chứa đựng hai mặt: mạnh và yếu.

Lời bình về thơ Tố Hữu

Vấn đề 1: Tâm tư trong tù Bấm vào đây để xem
– Kiến thức cơ bản
– Câu hỏi và bài tập – gợi ý trả lời
– Làm văn – bài tham khảo
– Tài liệu tham khảo…

Vấn đề 2: Việt Bắc. Bấm vào đây để xem.
Vấn đề 3: Kính gửi cụ Nguyễn Du Bấm vào đây để xem.

Phần 3

Nội dung bài giảng được trình bày theo trình tự sau:
1. Vấn đề 1: Tây Tiến . Bấm vào đây để xem.
– Tư liệu về tác giả và tác phẩm
– Các câu hỏi liên quan đến tác phẩm
– Các đề làm văn liên quan và các bài làm gợi ý
2. Vấn đề 2: Bên kia sông Đuống Bấm vào đây để xem.
– Tư liệu về tác giả và tác phẩm
– Các câu hỏi liên quan đến tác phẩm
– Các đề làm văn liên quan và các bài làm gợi ý
3. Vấn đề 3: Đất nước. Bấm vào đây để xem.
– Tư liệu về tác giả và tác phẩm
– Các câu hỏi liên quan đến tác phẩm
– Các đề làm văn liên quan và các bài làm gợi ý

Phần 4

Nội dung bài giảng được trình bày theo trình tự sau:
1. Vấn đề 1: Đôi mắt – Nam Cao. Bấm vào đây để xem.
– Các câu hỏi liên quan đến tác phẩm.
– Các đề làm văn liên quan và các bài làm gợi ý.
+ Đề 1: “… Đôi mắt của Nam Cao được coi như là bản Tuyên ngôn Nghệ Thuật của thế hệ chúng tôi, hồi ấy…” (Tô Hoài). Phân tích tác phẩm để làm sáng tỏ nhận định trên.
+ Đề 2: Phân tích văn sĩ Hoàng trong “Đôi mắt” của Nam Cao để làm sáng tỏ chủ đề tác phẩm.
– Tư liệu và lời bình
2. Vấn đề 2: Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài. Bấm vào đây để xem.
– Câu hỏi về tác phẩm
– Các đề làm văn và gợi ý làm:
+ Đề 1: Phân tích Mị (trọng tâm đoạn trích SGK V.12) để thấy được “Tô hoài đã xây dựng nhân vật theo quá trình phát triển cách mạng”
+ Đề 2: Phân tích giá trị nhân đạo của Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) qua cuộc đời của Mị và A Phủ
– Các đề bài luyện tập
– Lời bình và tư liệu
3. Vấn đề 3: Vợ nhặt – Kim Lân. Bấm vào đây để xem
– Câu hỏi về tác phẩm
– Các đề làm văn và gợi ý làm:
+ Đề 1: Phân tích giá trị nhân đạo sâu sắc trong “Vợ nhặt” của Kim Lân.
+ Đề 2: Phân tích tâm trạng của bà cụ Tứ trong “Vợ nhặt” của Kim Lân.
– Các đề bài luyện tập

Phần 5

Nội dung bài giảng được trình bày theo trình tự sau:
1. Vấn đề 1: Các vị La Hán chùa Tây Phương – Huy Cận . Bấm vào đây để xem.
– Kiến thức cơ bản về tác phẩm
– Luyện tập và bài làm gợi ý
+ Đề 1: Phân tích nghệ thuật miêu tả pho tượng trong bài “Các vị La Hán chùa Tây Phương” của Huy Cận.
+ Đề 2: Bình giảng một trong các đoạn thơ sau đây (học sinh tự làm)
a. “Đây vị xương trần … đến nay”
b. “Mặt cúi (…) mặt vẫn chau”
2. Vấn đề 2: Tiếng Hát Con Tàu – Chế Lan Viên. Bấm vào đây để xem.
– Kiến thức cơ bản về tác phẩm
– Luyện tập và các bài làm văn gợi ý:
+ Đề 1: Bình giảng đoạn thơ:
“Nhớ bản sương giăng (…) quê hương”
+ Đề 2: Bình giảng khổ thơ đề từ để từ đó phân tích bài thơ “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên.
3. Vấn đề 3: Sóng – Xuân Quỳnh. Bấm vào đây để xem.
– Kiến thức cơ bản về tác phẩm
– Luyện tập và các bài làm văn gợi ý:
+ Đề 1: Qua bài thơ Sóng, vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu được thể hiện như thế nào? (2đ)
+ Đề 2: Bình giảng bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh (5đ)
4. Vấn đề 4: Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm. Bấm vào đây để xem.
– Kiến thức cơ bản về tác phẩm
– Luyện tập và các bài làm văn gợi ý:
+ Đề 1: Phân tích đoạn trích “Đất nước” (Trích trường ca Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm).
+ Đề 2: Bình giảng: (Học sinh tự soạn)
a) “Và ở đâu … núi sông ta”
b) “Trong anh và em … muôn đời”

Phần 6

Nội dung bài giảng được trình bày theo trình tự sau:
1. Vấn đề 1: Nguyễn Tuân và người lái đò sông Đà. Bấm vào đây để xem.
– Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác.
– Phân tích tác phẩm người lái đò sông Đà:
+ Kiến thức cơ bản.
+ Đề luyện tập 1: Phân tích hình ảnh thiên nhiên và con người qua “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân để qua đó thấy được phong cách nghệ thuật của tác giả.
+ Đề luyện tập 2: Bình giảng đoạn văn sau đây trích trong bút kí Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân:
2. Vấn đề 2: Mùa Lạc – Nguyễn Khải. Bấm vào đây để xem.
– Kiến thức cơ bản về tác phẩm
– Luyện tập và các bài làm văn gợi ý:
Đề 1: Phân tích nhân vật Đào trong “Mùa lạc” của Nguyễn Khải.
3. Vấn đề 3: Rừng Xà Nu – Nguyễn Trung Thành. Bấm vào đây để xem.
– Kiến thức cơ bản về tác phẩm
– Luyện tập và các bài làm văn gợi ý:
+ Đề 1: Phân tích nhân vật Tnú trong “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành.
+ Đề 2: Phân tích hình tượng cây xà nu trong truyện “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành.
4. Vấn đề 4: Mảnh trăng cuối rừng – Nguyễn Minh Châu. Bấm vào đây để xem.
– Kiến thức cơ bản về tác phẩm
– Luyện tập và các bài làm văn gợi ý:
+ Đề 1: Phân tích vẻ đẹp lãng mạn – trữ tình trong “Mảnh trăng cuối rừng” của Nguyễn Minh Châu.
+ Đề 2: Nguyễn Minh Châu khi nói về cảm hứng sáng tác của mình, đã cho rằng: “Mỗi con người đều chứa trong lòng những nét đẹp đẽ, kỳ diệu đến nỗi cả một đời người cũng chưa đủ nhận thức, khám phá tất cả những cái đó”. Anh, chị hãy tìm hiểu những nét đẹp đẽ, kỳ diệu đó của nhân vật Nguyệt khi phân tích Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu.

Phần 7

Nội dung bài giảng được trình bày theo trình tự sau:
1. Đề 1: Phân tích truyện ngắn “Vi hành” để thấy một sáng tạo nghệ thuật độc đáo, một bút pháp mỉa mai, châm biếm bậc thầy của Nguyễn Ái Quốc. Bấm vào đây để xem.

2. Đề 2: Hãy chứng minh rằng truyện ngắn “Vi hành” là một tác phẩm văn chương thật sự mà Nguyễn Ái Quốc đã viết từ những năm 20 của thế kỉ này trên đất Pháp. Bấm vào đây để xem.

3. Đề 3: Trong truyện ngắn Vi hành, nhân vật chính không có mặt nhưng lại hiện lên sinh động và đầy ấn tượng, đạt hiệu quả nghệ thuật cao, mang sức tố cáo mạnh mẽ. Đó là nhờ sự sáng tạo độc đáo của Nguyễn Ái Quốc. Hãy phân tích và chứng minh. Bấm vào đây để xem.

4. Đề 4: Người ta thấy ở văn xuôi Nguyễn Ái Quốc “một nghệ thuật trần thuật linh hoạt độc đáo và một ngòi bút châm biếm vừa sâu sắc, đầy tính chiến đấu, vừa tươi tắn, hóm hỉnh”(Văn 12, 1992 – tr.8). Hãy chứng tỏ điều đó qua truyện ngắn Vi hành. Bấm vào đây để xem.

Phần 8

Nội dung bài giảng được trình bày theo trình tự sau:
1. Đề 1 Bấm vào đây để xem.
Có người nói: “Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn là một bài văn chính luận ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, đanh thép, lời lẽ hùng hồn đầy sức thuyết phục”.
2. Đề 2 Bấm vào đây để xem.
Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã đánh giá Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh như sau: “Tài nghệ ở đây là dàn dựng được một lập luận chặt chẽ, đưa ra được những luận điểm, những bằng chứng không ai chối cãi được và đằng sau những lí lẽ ấy là một tầm tư tưởng, tầm văn hóa lớn, đã tổng kết được trong một văn bản ngắn gọn, trong sáng, khúc chiết kinh nghiệm của nhiều thế kỷ đấu tranh vì độc lập, tự do, vì nhân quyền của dân tộc và của nhân loại”. (Giảng văn Văn học Việt Nam, Tái bản lần thứ nhất – Nhà xuất bản giáo dục, 1997, trang 490). Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập để làm sáng tỏ ý trên.
3. Đề 3 Bấm vào đây để xem.
Đoạn mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh được viết rất cao tay: vừa khéo léo vừa kiên quyết lại hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc. Hãy phân tích để làm sáng tỏ điều đó.
4. Đề 4 Bấm vào đây để xem.
Phân tích phần tuyên ngôn trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh (từ “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị” cho đến hết), nêu rõ:
1. Ý nghĩa sâu sắc của “phần tuyên ngôn”.
2. Lập luận chặt chẽ, giọng văn hùng biện đầy sức thuyết phục.

Phần 9

Nội dung bài giảng được trình bày theo trình tự sau:
1. Đề 1 Bấm vào đây để xem.
Phân tích “Ngắm trăng” của Hồ Chí Minh
2. Đề 2 Bấm vào đây để xem.
Phân tích bài thơ “Cảnh chiều hôm” của Hồ Chí Minh.
3. Đề 3 Bấm vào đây để xem.
Phân tích bài thơ “Mới ra tù, tập leo núi” của Hồ Chí Minh
4. Đề 4 Bấm vào đây để xem.
Phân tích bài “Mộ” (Ngục trung nhật ký của Hồ Chí Minh)
5. Đề 5 Bấm vào đây để xem.
Thơ Nhật ký trong tù đậm đà màu sắc cổ điển, mà vẫn thể hiện sáng ngời tinh thần thời đại. Hãy giải thích vì sao như vậy và phân tích bài thơ “Mới ra tù, tập leo núi” của Hồ Chí Minh để làm sáng tỏ hai vẻ đẹp đó.
6. Đề 6 Bấm vào đây để xem.
Đọc Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh, nhà thơ Hoàng Trung Thông viết:

Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp
Ánh đèn tỏa rạng mái đầu xanh
Vần thơ của Bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình

Em hiểu bốn câu thơ trên như thế nào? Chọn và phân tích những câu thơ tiêu biểu trong “Nhật ký trong tù” để làm sáng tỏ ý thơ trên.

Phần 10

Nội dung bài giảng được trình bày theo trình tự sau:
1. Đề 1 Bấm vào đây để xem.
Tình và Thép trong “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh, qua những bài thơ đã học và đọc thêm ở “Nhật ký trong tù”.
2. Đề 2 Bấm vào đây để xem.
Viết về “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh, nhà phê bình Hoài Thanh có nhận xét: “Tập Nhật ký trong tù là một tiếng nói chứa chan tình nhân đạo”. Hãy chứng minh ý kiến trên. thể dựa vào để phân tích đặc điểm của người chiến sĩ cộng sản.
3. Đề 3 Bấm vào đây để xem.

Lại thương nỗi đọa đày thân Bác
Mười bốn trăng tê tái gông cùm
Ôi! Chân yếu mắt mờ tóc bạc
Mà thơ bay … cánh hạc ung dung

(Tố Hữu)

Từ những bài đã học và đã đọc trong “Nhật ký trong tù” của Hồ Chủ Tịch, hãy chứng minh nhận định trên.
4. Đề 4 Bấm vào đây để xem.
Tình cảm nhân đạo trong “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh.
5. Đề 5 Bấm vào đây để xem.
Trong chuỗi ngày bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam cầm, Bác Hồ cảm thấy đau khổ vô hạn vì mất tự do. Vậy mà có lúc Bác lại tự nhận là “Khách tự do”, “Khách tiên”, có thể giải thích điều đó như thế nào?
6. Đề 6 Bấm vào đây để xem.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà thơ lớn, nhưng trong “Nhật ký trong tù”, Người lại viết:

Ngâm thơ ta vốn không ham
Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây;
Ngày dài ngâm ngợi cho khuây,
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do

Anh (chị) hãy giải thích về hiện tượng trên như thế nào?

Phần 11

Nội dung bài giảng được trình bày theo trình tự sau:
1. Phần 1 Bấm vào đây để xem.
Tư liệu văn học:
– Nhật kí trong tù – Hồ Chí Minh
– Tây Tiến – Quang Dũng
– Bên Kia Sông Đuống – Hoàng Cầm
– Đất nước – Nguyễn Đình Thi
– Việt Bắc – Tố Hữu
– Kính gửi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu
– Vợ Nhặt – Kim Lân
– Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài
– Rừng Xà Nu – Nguyễn Trung Thành
– Mùa Lạc – Nguyễn Khải
– Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm
– Sóng – Xuân Quỳnh
– 2. Đề 2 Bấm vào đây để xem.
Thơ – Bình Thơ
– Hàn Mặc Tử
– Nguyễn Bính
– Hữu Loan
– Vũ Cao
– T.T.KH và hai sắc hoa Ti gôn
– Kết cấu nghệ thuật của bài thơ “Lá Diêu Bông”
– Quang Dũng – Đôi mắt người Sơn Tây

Phần 12

Nội dung bài giảng được trình bày theo trình tự sau:
1. Đề 1 Bấm vào đây để xem.
“Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”. Giải thích và bình luận ý kiến trên của Thạch Lam (1910 – 1942)
2. Đề 2 Bấm vào đây để xem.
Trong truyện ngắn “Đời thừa”, Nam Cao viết : “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”.
Hãy bình luận ý kiến trên và phân tích một số tác phẩm của Nam Cao để làm sáng tỏ quan điểm nghệ thuật đó
3. Đề 3 Bấm vào đây để xem.
Trong truyện ngắn “Trăng sáng” (1943) nhà văn Nam Cao viết: “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp sống lầm than…”. Hãy giải thích và bình luận ý kiến trên.
4. Đề 4 Bấm vào đây để xem.
Vì sao có thể nói văn học chân chính có khả năng nhân đạo hóa con người? Liên hệ với thực tế văn học.
5. Đề 5 Bấm vào đây để xem.
Bình giảng “Các vị La Hán chùa Tây Phương” – Huy Cận
________________________________________

Người lái đò sông Đà – Nguyễn Tuân

<Trở về trang Ngữ văn>

Nguyễn Tuân

Tác giả

Nguyễn Tuân (1910 – 1987) xuất thân trong một gia đ́nh nhà nho ở Hà Nội. Tác phẩm tiêu biểu nhất: “Vang bóng một thời” (1933), “Sông Đà” (1960), Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi…

Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: tài hoa, độc đáo và uyên bác. Cái đẹp, cái thiên lương trong cuộc đời được ông nói đến với tâm hồn nghệ sĩ đích thực, với cái nh́n phát hiện và đầy sáng tạo. Văn của ông, chữ nghĩa của ông giàu có, tài hoa. Chuyện xưa và nay, chuyện trên rừng dưới biển, chuyện làm ăn, thú ăn chơi tao nhă… đến đặc sản, thổ ngơi, chuyện người, chuyện cây cỏ… từ rượu đến hoa, từ gị chả đến phở… được ông nói đến thật hay. Người đọc cảm thấy tâm hồn ḿnh giàu có thêm lên qua từng trang văn độc đáo của ông, để yêu hơn, tự hào hơn đất nước, con người và nền văn hoá Việt Nam.

Tác phẩm

  • Tải về các tác phẩm của Nguyễn Tuân

  • Hình ảnh tham quan sông Đà

    NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

  • Tiếng đàn ghi ta của Lorca – Thanh Thảo

    <Trở về trang Ngữ văn>

    Thanh Thảo

    Tác giả

    Thanh Thảo, Nhà thơ
    * Tên khai sinh: Hồ Thành Công, sinh năm 1946. Quê quán: xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Nơi ở hiện nay: Quảng Ngãi. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
    * Tốt nghiệp khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Thanh Thảo vào công tác ở chiến trường miền Nam trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Sau 1975, anh chuyên hoạt động văn học nghệ thuật, hiện là Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ Quảng Ngãi.

    * Tác phẩm đã xuất bản: Những người đi tới biển (trường ca, 1977); Dấu chân qua trảng cỏ (thơ, 1980); Khối vuông Rubic (thơ, 1985); Từ một đến một trăm (thơ, 1988); Những ngọn sóng mặt trời (trường ca, 1994).

    Thanh Thảo đã được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1979 (tập thơ Dấu chân qua trảng cỏ); Giải thưởng của Ban Văn học Quốc phòng An Ninh, Hội Nhà văn Việt Nam cho tập trường ca “Những ngọn sóng mặt trời” (1995).

    Tác phẩm

    ĐÀN GHI TA CỦA LORCA

    Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn ghita

    * F.G. Lorca

    những tiếng đàn bọt nước
    Tây-Ban-Nha áo choàng đỏ gắt
    li-la li-la li-la
    đi lang thang về miền đơn độc
    với vầng trăng chếnh choáng
    trên yên ngựa mỏi mòn
    Tây-Ban-Nha
    hát nghêu ngao
    bỗng kinh hoàng
    áo choàng bê bết đỏ
    Lorca bị điệu về bãi bắn
    chàng đi như người mộng du
    tiếng ghi-ta nâu
    bầu trời cô gái ấy
    tiếng ghi-ta lá xanh biết mấy
    tiếng ghi-ta tròn bọt nước vỡ tan
    tiếng ghi-ta ròng ròng
    máu chảy
    không ai chôn cất tiếng đàn
    tiếng đàn như cỏ mọc hoang
    giọt nước mắt vầng trăng
    long lanh trong đáy giếng
    đường chỉ tay đã đứt
    dòng sông rộng vô cùng
    Lorca bơi sang ngang
    trên chiếc ghi-ta màu bạc
    chàng ném lá bùa cô gái di-gan
    vào xoáy nước
    chàng ném trái tim mình
    vào lặng yên bất chợt
    li-la li-la li-la…

    (Khối vuông Rubic – NXB Tác phẩm mới – 1985)

    MỘT SỐ Ý KIẾN BÌNH GIẢNG

    Đất nước Tây Ban Nha xinh đẹp với những trận đấu bò rực lửa, với tiếng ghi ta say lòng đã đi vào trong thơ của Garcia Lorca, nhà thơ nhân dân, người chiến sĩ chống phát xít. Sự hy sinh anh dũng của ông trước họng súng của bọn phát xít Franco đã để lại nhiều tiếc thương cho nhân dân Tây Ban Nha. Sức ám ảnh của những bài thơ đầy chất lãng tử của người nghệ sĩ Tây Ban Nha ấy đã gặp gỡ với hồn thơ Thanh Thảo làm nên bài thơ độc đáo Đàn ghi ta của Lorca trong tập thơ Khối vuông rubic.

    Trước hết cần phải thấy không phải ngẫu nhiên mà Thanh Thảo lại chọn hình tượng đàn ghi ta gắn với giây phút cuối cùng của F.G.Lorca. Bởi lẽ người chiến sĩ này đã dùng tiếng ghi ta cất lên lời ca tranh đấu chống lại chủ nghĩa phát xít. Đàn ghi ta là tâm hồn Lorca, là khí phách kiên cường của những người chiến sĩ yêu tự do hòa nhịp trái tim mình với quần chúng nhân dân. Bởi vậy, nỗi xúc động của Thanh Thảo làm nên cảm hứng của bài thơ cũng bắt đầu từ câu thơ của Lorca: “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn ghi ta”.

    Viết về một nhà thơ hiện đại, một người con của đất nước Tây Ban Nha, Thanh Thảo đã dựng nên một chân dung bằng thơ sống động. Không gian mở đầu bài thơ là những biểu tượng đặc trưng của văn hóa xứ sở những trận đấu bò, hiện hữu tất cả chất say phóng cuồng nghệ sĩ:

    những tiếng đàn bọt nước

    Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt

    li-la li-la li-la

    đi lang thang về miền đơn độc

    với vầng trăng chếnh choáng

    trên yên ngựa mỏi mòn…
    Cái độc đáo của bài thơ này chính là ở những thủ pháp hiện đại mà hình ảnh không hề cầu kỳ xa lạ vẫn giúp người đọc hình dung chất Tây Ban Nha không trộn lẫn. Thanh Thảo có lối diễn đạt câu thơ không viết hoa đầu dòng, tạo mạch thơ liên tục, xâu chuỗi với nhau để nối kết các biểu tượng đầy sức ám ảnh : đất nước của những làn điệu ghi ta – Tây Ban cầm, của áo choàng matador – đấu sĩ, của những giấc mơ hiệp sĩ của chàng Đôn Kihôtê đã cuốn hút người đọc bằng chất men say chếnh choáng cả vầng trăng. Không chỉ có thế, ghi ta của chàng nghệ sĩ còn vang những âm điệu rất lạ « li-la li-la li-la » gọi về sắc tím của hoa tử đinh hương, âm thanh và màu sắc hoà quyện, dìu dịu vẻ đẹp của một nỗi buồn trữ tình. Bài thơ cuốn người đọc vào cái âm hưởng li-la ngân mãi không dứt ấy. Đó cũng là những gì đã xuất hiện trong thơ Lorca, ca ngợi một đất nước Tây Ban Nha tươi đẹp và hào hiệp với khát vọng công lý, tự do.

    Tây Ban Nha của thời Lorca còn là đất nước sôi sục những cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít , ghi ta của Lorca cất lên lời ca tranh đấu : «Ghi ta bần bật khóc – Không thể nào – dập tắt » (thơ Lorca). Bởi vậy diễn tả khoảnh khắc người chiến sĩ ấy bị bọn phát xít sát hại, Thanh Thảo cũng đã dựng nên bầu không gian kinh hoàng những ấn tượng chết chóc : Tây Ban Nha hát nghêu ngao – bỗng kinh hoàng –áo choàng bê bết đỏ-Lorca bị điệu về bãi bắn – chàng đi như người mộng du…Những câu thơ tiếp nối diễn tả tột cùng cho cảm giác đau đớn uất nghẹn trước sự tàn bạo của bọn độc tài phát xít :

    tiếng ghi ta nâu

    bầu trời cô gái ấy

    tiếng ghi ta lá xanh biết mấy

    tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan

    tiếng ghi ta

    ròng ròng máu chảy…

    Điệp khúc dồn dập qua nhịp thơ Thanh Thảo như đã lột tả được cái bàng hoàng căm phẫn trong bản ghi ta bi tráng! Màu nâu của đất, của làn da rám nắng, màu xanh của lá của bầu trời như tương phản gay gắt và dữ dội với màu đỏ ròng ròng máu chảy. Cảm giác vỡ oà đau đớn uất nghẹn trong tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan. Nỗi kinh hoàng trong cảm giác mất mát cũng nhân lên gấp bội, nỗi đau như xé lòng khi hình dung ra cảnh kẻ thù sát hại người nghệ sĩ tranh đấu cho tự do.

    Những câu thơ tiếp theo như đặc tả cho một sự sống khác, mãnh liệt, âm thầm mà bất tử :

    không ai chôn cất tiếng đàn

    tiếng đàn như cỏ mọc hoang

    giọt nước mắt vầng trăng

    long lanh trong đáy giếng

    Đoạn thơ tái hiện khoảnh khắc kẻ thù của Lorca hèn hạ thủ tiêu chàng, ném xác xuống giếng, nhưng qua hình tượng âm thanh tiếng đàn ta nhận ra một sức sống mãnh liệt vẫn tiếp tục. Cảm giác bi tráng hiện hữu qua những liên tưởng về cỏ mọc hoang, giọt nước mắt vầng trăng, đáy giếng tạo cảm giác trống vắng sau sự hy sinh anh dũng của Lorca. Thanh Thảo rất có ý thức khi so sánh tiếng đàn với cỏ mọc hoang để cảm nhận về sức lan toả của sự sống mãnh liệt không gì có thể hủy hoại được. Có khoảng lặng sau ánh sáng vầng trăng nhưng đủ diễn tả nỗi tiếc thương long lanh trong đáy giếng, nơi kẻ thù tưởng có thể vùi chôn tinh thần tự do bất tử của Lorca.

    Vì lẽ đó, những câu thơ Thanh Thảo đã tái hiện sự sống của Lorca thật kỳ diệu và xúc động, con người đã hoá thân vào âm thanh của đàn ghi ta, tan chảy hoà cùng dòng sông bất tận:

    Lorca bơi sang ngang

    Trên chiếc ghi ta màu bạc

    Chàng ném lá bùa cô gái di gan

    Vào xoáy nước

    Chàng ném trái tim mình

    Vào lặng yên bất chợt

    li-la li-la li-la…

    Những câu thơ diễn tả một hành trình đối mặt với định mệnh của người nghệ sĩ tài hoa người Tây Ban Nha, như một thái độ bình thản trước số phận. Lá bùa – định mệnh, trái tim lặng yên để làm nên một sự sống trường tồn vượt qua và vút lên vang động khắp không gian. Khúc đàn tự do ấy lại vang lên : li-la li-la li-la… Tiếng đàn mang tên loài hoa theo tiếng Tây Ban Nha như một sự sống lặng lẽ toả hương, hiện hữu giữa cuộc đời. Hai lần Thanh Thảo dùng động từ ném để diễn tả nhằm làm nổi bật lên vẻ đẹp của con người từ lâu dám coi khinh cái chết, bởi cái chết do kẻ thù gây ra cũng không thể ngăn cản tư tưởng, tâm hồn Lorca hoà vào với sự sống bất tử của nhân dân.

    Đàn ghi ta của Lorca là một bài thơ hay của Thanh Thảo, không chỉ đã tạo dựng chân dung người nghệ sĩ – chiến sĩ Garcia Lorca một cách trung thực, mà còn khiến người đọc cảm nhận rõ vẻ đẹp tâm hồn, tính cách đậm chất Tây Ban Nha của Lorca. Bài thơ giàu nhạc điệu, ngỡ như chính tác giả đã để lòng mình đồng điệu với sự sống Lorca trong giờ phút đối mặt với họng súng quân thù.

    Tiếng đàn ấy, sức sống ấy vẫn ngân vang những tiếng li-la li-la li-la để hiện hữu sống động hình ảnh một Lorca với chiếc ghi ta màu bạc, vẫn rong ruổi trên hành trình dân tộc Tây Ban Nha, hát lên bài ca tranh đấu, bài ca tình yêu sự sống. Phút gặp gỡ của nhà thơ Việt Nam Thanh Thảo với Lorca đã làm nên một bài thơ còn nóng hổi hơi thở cuộc sống hiện đại, ca ngợi người chiến sĩ trong đội ngũ đấu tranh vì tự do công lý, quyết không cúi đầu trước các thế lực bạo tàn./.

    Trần Hà Nam

    Sóng – Xuân Quỳnh

    <Trở về trang Ngữ văn>

    Xuân Quỳnh

    Tác giả

    Xuân Quỳnh (1942-1988)
    Tên thật: Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, vốn là diễn viên múa từ năm 13 tuổi, có thơ đăng báo năm 19 tuổi, trở thành nhà thơ chuyên nghiệp sau khi qua lớp bồi dưỡng những người viết văn trẻ khóa đầu tiên của Hội Nhà Văn Việt Nam (1962-1964).
    Chủ đề thơ Xuân Quỳnh thường là những vấn đề nội tâm: kỷ niệm tuổi thơ, tình yêu gia đình… Hiện thực xã hội, sự kiện đời sống hiện diện như một bối cảnh cho tâm trạng. Do vậy thơ Xuân Quỳnh hướng nội, rất tâm trạng cá nhân nhưng không là thứ tháp ngà xa rời đời sống. Thơ chị là đời sống đích thực, đời sống của chị trong những năm đất nước còn chia cắt, còn chiến tranh, còn nghèo, còn gian khổ, là những lo toan con cái, cơm nước, cửa nhà của một người phụ nữ, người phụ nữ làm thơ thường ngược xuôi trên mọi ngả đường bom đạn. Xuân Quỳnh không làm ra thơ, không chế tạo câu chữ mà chị viết như kể lại những gì chị đã sống, đã trải. Nét riêng của Xuân Quỳnh so với thế hệ nhà thơ hiện đại cùng thời chính là ở khía cạnh nội tâm đó. Thơ chị là thơ mang tâm trạng. Thời ấy nhiều bài thơ thiên về phản ánh sự kiện, cốt để được việc cho đời, còn tâm trạng tác giả thường là tâm trạng chung của xã hội, vui buồn tác giả hòa trong vui buồn chung của công dân. Tâm trạng thơ Xuân Quỳnh là tâm trạng nảy sinh từ đời sống của chính chị, từ hoàn cảnh của riêng chị. Viết trên đường 20 là bài thơ chiến tranh nhưng lại mang nỗi lòng trăn trở xao xác của một người đang yêu. Có bài bề bộn chi tiết hiện thực như một ký sự. Những năm ấy, đúng là ký sự về đời sống Hà Nội những năm chống Mỹ, nhưng nó không thành ký mà vẫn là thơ do nỗi lòng riêng của tác giả đã tạo nên một mạch trữ tình xâu chuỗi các chi tiết rời rạc của ngày thường lại, tổ chức nó thành kết cấu của bài thơ. Xuân Quỳnh có tài tỏa lên các chi tiết ngẫu nhiên quan sát được từ đời sống một từ trường cảm xúc của nội tâm mình, biến các chi tiết đời trở nên thơ, có sức gợi, sức ám ảnh kỳ lạ (Trời trở rét, Không đề, Gió Lào cát trắng, Mùa hoa doi, Hoa cỏ may…)
    Thơ Xuân Quỳnh giàu tình cảm, tình cảm sâu và tinh tế nhưng lẩn khuất phía sau tình cảm ấy lại là tư tưởng có tính khái quát, triết lý (Cơn mưa không phải của mình, Đồi đá ong và cây bạch đàn, Chuyện cổ tích về loàìi người, Những người mẹ không có lỗi…) Đấy là những triết lý nảy sinh từ đời sống, nó có tính thực tiễn, giúp ích thật sự cho người đọc nhận thức và xử lý việc đời, không phải thứ triết lý tư biện, viễn vọng mà chẳng dùng được vào việc gì.
    Đề tài, đối với Xuân Quỳnh, không phải là quan trọng. Điều chị quan tâm là chủ đề. Thơ Xuân Quỳnh bao giờ cũng có tứ, chị dùng tứ để bộc lộ chủ đề. Đây là một đóng góp đáng quý của Xuân Quỳnh vì giai đoạn ấy thơ chúng ta rất lỏng về tứ. Xuân Quỳnh có năng khiếu quan sát. Chị quan sát bằng tất cả giác quan và phong phú trong liên tưởng. Chi tiết vốn quen thuộc bỗng trở nên mới lạ, tạo ý vị cho câu thơ. Một màu cỏ mùa xuân: Cỏ bờ đê rất lạ/ Xanh như là chiêm bao. Tiếng mưa trên lá cọ: Mưa trên cọ bàng hoàng rồi vụt tạnh.
    Cũng có thể vì có tài quan sát mà ở một số bài Xuân Quỳnh ham tả, ham kể. Kể có duyên nhưng vẫn làm loãng chất thơ. Những bài thơ dài của Xuân Quỳnh thường dài vì rậm chi tiết.
    Xuân Quỳnh được coi là nhà thơ nữ hàng đầu của nửa cuối thế kỷ 20.
    Hà Nội, 20-3-2000
    VŨ QUẦN PHƯƠNG
    Thiết tưởng trong thi ca hiện đại khó có bài thơ nào, ca khúc nào chuyển tải được sự tha thiết, nồng nàn và cả hương vị của tình yêu bằng các ca khúc Thuyền và biển và Thư tình cuối mùa thu (thơ Xuân Quỳnh, Phan Huỳnh Điểu phổ nhạc). Đó là một sự giao cảm và kết hợp tuyệt vời giữa một người được coi là nhà thơ của tình yêu, còn người kia là nhạc sĩ của tình yêu.
    Nhân ngày Tình yêu, xin gửi những người đang yêu câu thơ bất hủ: “Chỉ còn anh và em cùng tình yêu ở lại”.
    Xuân Quỳnh tài hoa và xinh đẹp. Người con gái mồ côi mẹ, sống với bà nội quê ở xã La Khê, huyện Hoài Đức (Hà Tây) ấy mới 13 tuổi (năm 1955) đã được tuyển vào Đoàn Văn công trung ương và trở thành diễn viên múa chuyên nghiệp, từng đi biểu diễn ở nước ngoài và dự Đại hội Thanh niên sinh viên thế giới năm 1959 tại Vienne (Áo)… Nhưng Xuân Quỳnh không tự thỏa mãn với nghề múa, trong tâm thức chị luôn thôi thúc được viết, được trang trải những suy nghĩ dồn nén của mình ra trang giấy.
    Tốt nghiệp Trường Bồi dưỡng viết văn khóa I (1962-1963), từ đó cho đến lúc qua đời Xuân Quỳnh gắn chặt với nghiệp cầm bút… Phàm người tài hoa thường đa cảm, truân chuyên: cuộc hôn nhân lần đầu tiên với một nghệ sĩ violon gãy đổ sau khi họ chuyển về khu nhà 96 Phố Huế (Hà Nội) – “cư xá” dành riêng cho văn nghệ sĩ. Chính ở đó Xuân Quỳnh đã gặp Lưu Quang Vũ – một cuộc gặp gỡ định mệnh! Vũ nhỏ hơn Quỳnh 6 tuổi (1948), trước khi yêu Quỳnh đã lập gia đình với diễn viên điện ảnh T.U ! Cuộc tình này đã cho Lưu Quang Vũ “biết thế nào là… đau khổ” và cả sự đắng cay, chua chát dù lúc này anh đã có chút tiếng tăm trong làng thơ. Chính lúc ấy hai hồn thơ “láng giềng” cô đơn và đau khổ đã tìm đến nhau, vực nhau dậy và dìu nhau đi. Nói đúng hơn thì chính định mệnh đã đưa Xuân Quỳnh đến với Lưu Quang Vũ để thắp lên trong anh ngọn lửa ấm tin yêu, giúp anh vượt qua giai đoạn suy sụp tinh thần để từ đó tài năng của anh như được chắp thêm đôi cánh trong lĩnh vực nghệ thuật. Chính tình yêu của Xuân Quỳnh góp phần quan trọng nhất giúp Lưu Quang Vũ sau này trở thành một kịch tác gia sung sức và uy tín nhất trong thập niên 80.
    Kể từ lúc chung sống với nhau cho đến ngày cùng chết bên nhau (tử nạn trong tai nạn giao thông cùng con trai út Lưu Quỳnh Thơ ngày 29/8/1988 tại cầu Phú Lương, thị xã Hải Dương) cả hai đều sáng tác rất sung sức, đặc biệt là Xuân Quỳnh với những bài thơ tình nổi tiếng: Sân ga chiều em đi, Tự hát, Thuyền và biển, Thư tình cuối mùa thu… Nhà thơ Nguyễn Duy đã từng viết: “Xuân Quỳnh – Lưu Quang Vũ, hai gương mặt tiêu biểu nhất, một đối thoại tình yêu đẹp nhất của thế hệ chúng tôi. Những bài thơ ấy không chỉ là tiếng nói riêng của hai người mà đã trở thành tiếng nói chung của bao đôi lứa yêu nhau”.
    Thơ tình Xuân Quỳnh rất hay. Điều đó ai cũng thừa nhận, nhưng bài thơ còn hay hơn nữa khi được nâng lên bởi người nhạc sĩ tài hoa Phan Huỳnh Điểu. Những người yêu nhau ai mà chẳng từng hát Thuyền và biển, Thư tình cuối mùa thu… Nhất là bài Thư tình… với giai điệu trữ tình, đằm thắm cung sol thứ. Tình yêu đã vượt qua mùa bão gió, qua ngàn cơn thác lũ, để bây giờ “chỉ còn anh và em cùng tình yêu ở lại” – lời tự tình được nhắc đi nhắc lại nhưng vẫn nghe có chút gì buồn thương, hoài cảm… Chúng tôi đã có cuộc trao đổi với nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu chung quanh các tình khúc này.

    – Ông là người viết rất thành công những ca khúc phổ thơ. Do đâu ông sở đắc với loại hình này ? Và cảm nhận của ông riêng với thơ Xuân Quỳnh ?

    – Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu: Phải nói thật là rất ít nhạc sĩ sáng tác có khả năng sử dụng ngôn ngữ (ca từ) phong phú bằng các nhà thơ. Tôi lười… chọn chữ, cho nên rất hay đọc thơ và hễ bắt gặp bài thơ nào hay, hợp với tình cảm, tâm trạng thì phổ. Cũng một câu nói “Em yêu anh” thốt ra từ miệng một cô gái bình thường nghe đã… xao xuyến rồi, nếu như câu nói ấy lại được thốt ra với… âm điệu trầm bổng đầy nhạc tính, dĩ nhiên nghe “phê” hơn ! Thơ Xuân Quỳnh vừa trẻ trung vừa sâu sắc. Đã hay về lời văn lại hay cả về tình cảm và âm điệu. Thí dụ câu Chỉ có thuyền mới hiểu… đọc không thôi mà nghe rất hay.

    – Hẳn ông là người rất hiểu Xuân Quỳnh?

    – Không chỉ hiểu mà tôi còn biết rất rõ về Xuân Quỳnh bởi chúng tôi cùng ở khu nhà tập thể 96 Phố Huế. Căn hộ của tôi sát cạnh hộ nhà thơ Lưu Quang Thuận (bố Lưu Quang Vũ), càng thân bởi đồng hương Đà Nẵng. Tôi cũng có quen với anh nghệ sĩ violon – chồng trước của Xuân Quỳnh. Khi Quỳnh về sống với Vũ, nhà tôi và nhà ông Thuận cùng nhường cho đôi vợ chồng mới này 2 cái… phòng tắm sát vách, họ đập bỏ bức vách để có “căn hộ… 4 mét vuông”, chật chội là thế nhưng họ đã sống bên nhau cho đến lúc không còn hiện diện trên cõi đời này.

    – Nhiều người gọi ông là “nhạc sĩ của tình yêu”, nhân ngày Tình yêu ông có thể tiết lộ điều gì đã tạo nên phong cách đó?

    – Danh hiệu “nhạc sĩ của tình yêu” là do nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát đã ưu ái đặt cho. Mà ngẫm cũng… đúng thiệt, bởi từ tác phẩm đầu tay Trầu cau tôi đã hướng vào đề tài tình yêu và gắn bó với đề tài này xuyên suốt cho đến tận bây giờ. Nhân ngày Tình yêu, tôi chúc các bạn trẻ – những người đang yêu nhau càng yêu nhau… quên trời đất, để “chỉ còn anh và em cùng tình yêu ở lại”.
    (Theo Thanh Niên)

    Tác phẩm

    BÀI THƠ “SÓNG” – XUÂN QUỲNH

    Dữ dội và dịu êm
    Ồn ào và lặng lẽ
    Sóng không hiểu nổi mình
    Sóng tìm ra tận bể.
    ***
    Ôi con sóng ngày xưa
    Và ngày sau vẫn thế
    Nỗi khát vọng tình yêu
    Bồi hồi trong ngực trẻ.
    ***
    Trước muôn trùng sóng bể
    Em nghĩ về anh, em
    Em nghĩ về biển lớn
    Từ nơi nào sóng lên?
    ***
    – Sóng bắt đầu từ gió
    Gió bắt đầu từ đâu?
    Em cũng không biết nữa
    Khi nào ta yêu nhau
    ***
    Con sóng dưới lòng sâu
    Con sóng trên mặt nước
    Những con sóng nhớ bờ
    Ngày đêm không ngủ được
    Lòng em nhớ đến anh
    Cả trong mơ còn thức
    ***
    Dẫu xuôi về phương Bắc
    Dẫu ngược về phương Nam
    Nơi nào em cũng nghĩ
    Hướng về anh – một phương.
    ***
    Ở ngoài kia đại dương
    Trăm nghìn con sóng đó
    Con nào chẳng tới bờ
    Dẫu muôn vời cách trở
    ***
    Cuộc đời tuy dài thế
    Năm tháng vẫn đi qua
    Như biển kia dẫu rộng
    Mây vẫn bay về xa
    ***
    Làm sao được tan ra
    Thành trăm con sóng nhỏ
    Giữa biển lớn tình yêu
    Để ngàn năm còn vỗ.

    Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm

    <Trở về trang Ngữ văn>

    Nguyễn Khoa Điềm

    Tác giả

    Tên thật: Nguyễn Khoa Điềm
    Sinh năm: 1943
    Bút danh: Nguyễn Khoa Điềm
    Nơi sinh: Phong Điền – Thừa Thiên- Huế
    Thể loại: Thơ, ký

    Tác phẩm

    – Đất ngoại ô (1973)
    – Mặt đường khát vọng (1974)
    – Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986)
    – Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990)
    – Cửa thép (1972)

    Đất và khát vọng – Trích trường ca Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm

    Khi ta lớn Đất Nước đã có rồi
    Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa..” mẹ thường hay kể
    Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
    Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.
    Tóc mẹ thì bới sau đầu
    Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
    Cái kèo, cái cột thành tên
    Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
    Đất Nước có từ ngày đó..
    Đất là nơi anh đến trường
    Nước là nơi em tắm
    Đất Nước là nơi ta hò hẹn
    Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
    Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
    Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
    Thời gian đằng đẵng
    Không gian mênh mông
    Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
    Đất là nơi Chim về
    Nước là nơi Rồng ở
    Lạc Long Quân và Âu Cơ
    Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
    Những ai đã khuất
    Những ai bây giờ
    Yêu nhau và sinh con đẻ cái
    Gánh vác phần người đi trước để lại
    Dặn dò con cháu chuyện mai sau
    Hằng năm ăn đâu làm đâu
    Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
    Trong anh và em hôm nay
    Đều có một phần Đất Nước
    Khi hai đứa cầm tay
    Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
    Khi chúng ra cầm tay mọi người
    Đất Nước vẹn tròn, to lớn
    Mai này con ta lớn lên
    Con sẽ mang Đất Nước đi xa
    Đến những tháng ngày mơ mộng
    Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
    Phải biết gắn bó và san sẻ
    Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
    Làm nên Đất Nước muôn đời..
    Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
    Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
    Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
    Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
    Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
    Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
    Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
    Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
    Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
    Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
    Ôi Đất Nước sau 4.000 năm đi đâu ta cũng thấy
    Những cuộc đời đã hóa núi sông ta
    Em ơi em
    Hãy nhìn rất xa
    Vào 4.000 năm Đất Nước
    Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
    Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
    Cần cù làm lụng
    Khi có giặc người con trai ra trận
    Người con gái trở về nuôi cái cùng con
    Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
    Nhiều người đã trở thành anh hùng
    Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhỏ
    Nhưng em biết không
    Có biết bao người con gái, con trai
    Trong 4.000 lớp người giống ta lứa tuổi
    Họ đã sống và chết
    Giản dị và bình tâm
    Không ai nhớ mặt đặt tên
    Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
    Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
    Họ chuyển lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
    Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
    Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
    Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
    Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
    Có nội thù thì vùng lên đánh bại
    Để Đất Nước là Đất Nước nhân dân
    Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
    Dạy anh biết “yêu em từ thở trong nôi”
    Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
    Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
    Đi trả thù mà không sợ dài lâu
    Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
    Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
    Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
    Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi
    Người dạy ta nghèo ăn cháo ăn rau
    Biết ăn ớt để đánh lừa cái lưỡi
    Cái cuốc, con dao, đánh lừa cái tuổi
    Chén rượu đánh lừa con mỏi, cơn đau
    Con nộm nag tre đánh lừa cái chết
    Đánh lừa cái rét là ăn miếng trầu
    Đánh lừa thằng giặc là chuyện Trạng Quỳnh
    Nhưng lạ lùng thay, nhân dân thông minh
    Không hề lừa ta dù cao dao, cổ tích
    Ta lớn lên bằng niềm tin rất thật
    Biết bao nhiêu hạnh phúc có trên đời
    Dẫu phải cay đắng dập vùi
    Rằng cô Tấm cũng về làm hoàng hậu
    Cây khế chua có đại bàng đến đậu
    Chim ăn rồi trả ngon ngọt cho ta
    Đất đai cỗi cằn thì người sẽ nở hoa
    Hoa của đất, người trồng cây dựng cửa
    Khi ta đến gõ lên từng cánh cửa
    Thì tin yêu ngay thẳng đón ta vào
    Ta nghẹn ngào, Đất Nước Việt Nam ơí
    Em nghe không trái thị đã rơi xuống tay người
    Trai không chỉ rơi vì sức hút đất đai
    Trái rơi vì tay người ao ước
    Khi trái chạm tay người và người ấm ủ
    Thì lừng hương và cô Tấm bước ra
    Đi trả thù và sống Tự do
    Không rơi xuống bùn, ôi trái thị quê ta
    Để bùn lấm và thành bùn vạn kiếp
    Rơi vào tay người, đó là định luật
    Của đấu tranh và nhân nghĩa Việt Nam
    Tuổi trẻ ơi trong sương gió tháng năm
    Ta đã lớn rồi, chín đầy hy vọng
    Hãy ngã xuống tay nhân dân, hỡi sắc vàng của nắng
    Hỡi hương thơm của nồng mặn mồ hôi..
    Hãy ngã vào tay nhân dân, đừng vãi đừng rơi
    Đừng do dự, đừng hoài nghi nữa
    Hãy yêu nhân dân và nghe người nhắn nhủ
    Hãy tìm sức mạnh trên cơ thể nhân dân
    Nhân dân đang đi lên đội ngũ trùng trùng
    Thế vô tận của nghìn năm giết giặc
    Lửa đã cháy hồng hào mặt đất
    Mùa chín tình yêu, mùa chín hận thù
    Không bao giờ xương máu phải bơ vơ
    Ôi sông núi uy nghi ngàn dặm đất
    Có nghe tiếng chúng con: Xin có mặt
    Nguyện làm người xung kích của quê hương
    Đấy tiếng hát chúng con: tiếng hát xuống đường!

    Trích Trường ca Mặt đường khát vọng – 1974, Nhà xuất bản Giáo dục 2005

    MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ ĐOẠN TRÍCH

    Chủ đề

    Bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm nói về cội nguồn đất nước theo chiều dài lịch sử đằng đẵng và không gian địa lý mênh mông. Hình tượng Núi Sông gắn liền với tâm hồn và chí khí của Nhân dân, những con người làm ra Đất nước. Đất nước trường tồn hứa hẹn một ngày mai đẹp tươi và hát ca.

    Những đoạn thơ hay, những ý tưởng đẹp

    1. Đất nước – cội nguồn dân tộc

    Đất nước có đã lâu rồi từ những “ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”. Đất nước gắn liền với mĩ tục thuần phong, với cổ tích truyền thuyết “Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn – Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc – Tóc mẹ thì bới sau đầu – Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.

    – Đất nước gắn bó với những cái bình dị thân thuộc quanh ta:

    “Cái kèo, cái cột thành tên
    Hạt gạo phải một nằng hai sương xay, giã giần, sàng”

    Đất nước là “nơi ta hò hẹn”, là “nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”, là “nơi anh đến trường” là “nơi em tắm”…

    – Đất nước gắn liền với dân ca “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc…, con cá ngư ông móng nước biển khơi”, gắn liền với huyền thoại “Trăm trứng” thiêng liêng:

    “Đất là nơi Chim về
    Nước là nơi Rồng ở
    Lạc Long Quân và Âu Cơ
    Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”

    – Đất nước trường tồn theo thời gian đằng đẵng, trải rộng trên một “không gian mênh mông”. Yêu thương biết bao, bởi lẽ “Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ”, là quê hương xứ sở ngàn đời:

    “Hằng năm ăn đâu làm đâu
    Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”

    – Đất nước lâu đời “ngày xửa ngày xưa”, Đất nước hôm nay, và Đất nước mai sau. Một niềm tin cao cả thiêng liêng:

    “Mai này con ta lớn lên
    Con sẽ mang Đất nước đi xa
    Đến những tháng ngày mơ mộng”

    Đất nước là của mọi người, trong đó có một phần của “anh và em hôm nay”. Đất nước mỗi ngày một tốt đẹp vững bền, trở nên “vẹn tròn to lớn”. Đất nước hình thành và trường tồn bằng máu xương của mỗi chúng ta. Tình yêu nước là sự “gắn bó và san sẻ”. Đây là một trong những đoạn thơ tâm tình sâu lắng, hay nhất trong bài thơ nói về tình yêu đất nước:

    “Em ơi Đất nước là máu xương của mình
    Phải biết gắn bó và san sẻ.
    Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
    Làm nên đất nước muôn đời”

    Tóm lại, 42 câu thơ trong phần I nói về nguồn gốc của Đất nước và sự gắn bó, san sẻ đối với Đất nước. Ý tưởng sâu sắc ấy được diễn tả bằng một thứ ngôn ngữ đậm đà màu sắc dân gian, một giọng điệu thủ thỉ tâm tình vô cùng thấm thía, xúc động. Chất trữ tình hòa quyện với tính chính luận.

    2. Đất nước của Nhân dân – Đất nước của ca dao thần thoại

    Đất nước hùng vĩ. Giang sơn gấm vóc. Ý tưởng ấy, niềm tự hào ấy đã được nhiều thi sĩ bao đời nay nói đến thật hay, thật xúc động. Nguyễn Khoa Điềm nói về ý tưởng ấy niềm tự hào ấy rất thơ và rất độc đáo. Tượng hình, sông núi gắn liền với những đức tính quý báu, những phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam. Là sự thủy chung trong tình yêu. Là truyền thống anh hùng bất khuất, là tinh thần đoàn kết, nghĩa tình. Là khát vọng bay bổng, là tinh thần hiếu học. Là đức tính cần mẫn sum vầy, là chí khí tự lập tự cường. Mỗi tên núi tên sông trở nên gần gũi trong tâm hồn ta:

    “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu
    Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
    Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
    Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
    Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
    Người học trò nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút non Nghiên
    Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
    Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm…”

    Tính phẩm mỹ, tính hình tượng và tính riêng phong cách được hội tụ qua đoạn thơ này, tạo nên giá trị nhân văn đích thực, làm cho người đọc vô cùng thú vị khi cảm nhận và khám phá.

    Tên núi, tên sông, tên ruộng đồng, gò bãi… mang theo “ao ước”, thể hiện “lối sống ông cha” là tâm hồn dân tộc:

    “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
    Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
    Ôi Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
    Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”.
    Mồ hôi và máu của Nhân dân, của những anh hùng vô danh đã dựng xây và bảo vệ Đất nước:

    “Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
    Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
    Cần cù làm lụng
    Khi có giặc người con trai ra trận
    Người con gái trở về nuôi cái cùng con
    Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
    Nhiều người đã trở thành anh hùng”

    Chính nhân dân đã “giữ và truyền” hạt lúa, đã “truyền lửa”, “truyền giọng điệu”, “gánh tên làng tên xã”…, “đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái”. Chính Nhân dân đã làm nên Đất nước, để Đất nước là của Nhân dân. Vần thơ hàm chứa ý tưởng đẹp, một lối diễn đạt ý vị ngọt ngào:

    “Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
    Có nội thù thì vùng lên đánh bại
    Để Đất nước này là Đất nước Nhân dân
    Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại”

    – Đất nước mang sức sống mãnh liệt, tiềm tàng vì Nhân dân đã biết yêu và biết ghét, bền chí và dẻo dai, biết “quý công cầm vàng”, “biết trồng tre đợi ngày thành gậy”, biết trả thù cho nước, rửa hận cho giống nòi mà “không sợ dài lâu”.

    – Hình ảnh người chèo đò, kéo thuyền vượt thác cất cao tiếng hát là một biểu tượng nói lên sức mạnh Nhân dân chiến thắng mọi thử thách, lạc quan tin tưởng đưa Đất nước đi tới một ngày mai vô cùng tươi sáng:

    “Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
    Mà khi về Đất nước mình thì bắt lên câu hát
    Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
    Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”

    Kết luận

    Giọng thơ tâm tình tha thiết. Vận dụng tục ngữ ca dao, dân ca, cổ tích, truyền thuyết… một cách hồn nhiên thú vị. Có một số đoạn thơ rất đặc sắc: ý tưởng đẹp, cảm xúc và hình tượng hài hòa, hội tụ nên những vần thơ mĩ lệ. Tư tưởng đất nước của Nhân dân được thể hiện vô cùng sâu sắc với tất cả niềm tự hào và tình yêu nước. Một đôi chỗ còn dàn trải, thiếu hàm súc. Nguyễn Khoa Điềm đã góp cho đề tài Đất nước một bài thơ hay, ý vị đậm đà.

    Việt Bắc – Tố Hữu

    <Trở về trang Ngữ văn>

    Tố Hữu

    Tác giả

    Tố Hữu tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 04-10-1920.
    Ông sinh tại Hội An, tỉnh Quảng Nam. Nhiều tài liệu, sách báo thường ghi ông sinh tại làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Ông đã nói rõ điều này trong cuốn Một thời nhớ lại, NXB Hội Nhà văn, 2000: “Nhưng thực ra tôi sinh ở Hội An, tỉnh Quảng Nam, năm 1920, và ở đó đến năm chín tuổi mới theo cha ra Huế” (trang 8).
    Ông thân sinh là một nhà nho nghèo, tuy không đỗ đạt và phải chật vật để kiếm sống bằng nhiều nghề nhưng lại ham thơ và thích sưu tầm ca dao, tục ngữ. Từ thưở nhỏ, Tố Hữu đã được cha dạy làm thơ theo những lối cổ. Bà mẹ Tố Hữu là con một nhà nho, thuộc nhiều ca dao, dân ca xứ Huế và rất giàu tình thương con. Mẹ ông mất vào năm ông lên 12 tuổi. Năm 13 tuổi, ông vào trường Quốc học (Huế). Tại đây, được trực tiếp tiếp xúc với tư tưởng của Karl Marx, Friedrich Engels, Vladimir Ilyich Lenin, Maxim Gorky… qua sách báo, kết hợp với sự vận động của các đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam bấy giờ (Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Chí Diểu), Nguyễn Kim Thành sớm tiếp cận với ý tưởng cộng sản. Ông trở thành người lãnh đạo chủ chốt của Đòan thanh niên Dân chủ ở Huế và được kết nạp vào Đảng Cộng sản năm 1938.
    Tháng 4 năm 1939, ông bị bắt, bị tra tấn và giam tại nhiều nhà tù miền Trung như Lao Bảo, Huế, Ban Mê Thuột…
    Tháng 3 năm 1942, ông vượt ngục Đắc Lay (Kon Tum), vượt hàng trăm cây số đường rừng, thóat khỏi sự vây lùng của kẻ thù tìm về hoạt động bí mật ở Hậu Lộc, Thanh Hóa. Khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, ông là chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa của thành phố Huế, lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở thành phố quê hương, nơi đầu não của bộ máy chính quyền phong kiến. Năm 1946, ông là bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa. Cuối 1947, ông lên Việt Bắc làm công tác văn nghệ, tuyên huấn. Từ đó, ông được giao những chức vụ quan trọng trong công tác văn nghệ, trong bộ máy lãnh đạo Đảng và nhà nước:
    * 1948: Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam;
    * 1963: Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam;
    * Tại đại hội Đảng lần II (1951): Ủy viên dự khuyết Trung ương; 1955: Ủy viên chính thức;
    * Tại đại hội Đảng lần III (1960): vào Ban Bí thư;
    * Tại đại hội Đảng lần IV (1976): Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Bí thư Ban chấp hành Trung ương, Trưởng ban Tuyên truyền Trung ương, Phó Ban Nông nghiệp Trung ương;
    * Từ 1980: Ủy viên chính thức Bộ Chính trị;
    * 1981: Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, rồi Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng cho tới năm 1986. Ngoài ra ông còn là Bí thư Ban chấp hành Trung ương.
    Ông từng đảm nhiệm nhiều chức vụ khác như Hiệu trưởng Trường Nguyễn Ái Quốc, Trưởng Ban Thống nhất Trung ương, Trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương, Trưởng Ban Khoa giáo Trung ương. Ông còn là Đại biểu Quốc hội khoá II và VII.
    Ông mất lúc 9 giờ 15phút ngày 09 tháng 12 năm 2002 tại Bệnh viện 108 (Hà Nội).
    Tố Hữu được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I – 1996)
    SGK Văn học 12 – tập 1 (chỉnh lí hợp nhất năm 2000)

    Tác phẩm

    1. “Từ ấy”, (1937 – 1946)
    2. “Việt Bắc” (1954)
    3. “Gió lộng” (1961)
    4. “Ra trận” (1972)
    5. “Máu và hoa” (1977)
    6. “Một tiếng đờn” (1979 – 1992)

    TẬP THƠ VIỆT BẮC

    Việt Bắc là tập thơ của nhà thơ Tố Hữu, hầu hết trong đó là các bài thơ sáng tác trong những năm kháng chiến chống Pháp và đã được xuất bản trên báo chí trước khi in thành tập lần đầu tiên vào năm 1954..
    Kết cấu
    Trong lần in đầu tiên năm 1954, tập thơ Việt Bắc gồm 24 bài với bài đầu tiên là Cá nước, sáng tác năm 1947, và kết thúc với bài Lại về, sáng tác năm 1954. Tập thơ cũng có 6 bài thơ dịch, bao gồm thơ của Louis Aragon (Pháp), Konstantin Mikhailovich Simonov (Nga), thơ kháng chiến của Nam Tư và thơ tuyệt mệnh của ông bà Rosenberg (Mỹ).
    Trong những lần in sau đó, tập thơ Việt Bắc được bổ sung thêm 4 bài Đêm xanh, Lạnh lạt, Tình khoai sắn, Trường tôi, sáng tác vào năm 1946.
    Các bài thơ trong thi tập sử dụng nhiều thể thơ như thơ tự do, thơ ngũ ngôn, đặc biệt là các thể thơ dân tộc như thơ lục bát và thơ xen song thất lục bát.
    Đặc điểm nghệ thuật
    Là tập hùng ca của kháng chiến toàn dân tám năm ròng rã chống bọn xâm lăng (theo Đặng Thai Mai), tập thơ Việt Bắc phản ánh đầy đủ con đường chiến đấu gian lao và sự trưởng thành của dân tộc Việt Nam qua những dấu ấn, hình ảnh về cuộc kháng chiến. Đó là tiếng hát mở đường (bài Phá đường); tiếng hò kéo pháo lên chiến dịch (bài Voi); nỗi lòng bà mẹ nhớ con (bài Bầm ơi); niềm thao thức nơi anh bộ đội nhớ mẹ ở làng quê (bài Bà bủ); chiến thắng Việt Bắc (bài Cá nước); nguồn sáng nơi căn nhà của cụ Hồ (bài Sáng tháng năm); bước chân người chiến sĩ vào trận tuyến nơi núi rừng Tây Bắc (bài Lên Tây Bắc); niềm hân hoan trước chiến công lừng lẫy tại Điện Biên Phủ (bài Hoan hô chiến sĩ Điện Biên); niềm vui chiến thắng và hòa bình trên bước đường đi tới (bài Ta đi tới); nỗi nhớ nhung và lời hẹn ước giã từ thủ đô gió ngàn (bài Việt Bắc) v.v.
    Một trong những điểm nổi bật của tập thơ Việt Bắc là sự khắc họa chân thực những nhân vật văn học đại diện cho các tầng lớp nhân dân Việt Nam kháng chiến, những con người mới của thời đại mới, mà nổi bật trong đó là hình ảnh Hồ Chí Minh[1] hiện thân cho tinh hoa và trí tuệ của dân tộc. Tuy vậy, tập thơ vẫn còn thiếu những con người cá thể, cụ thể, những tình cảm riêng tư của cái “tôi” trữ tình. Về mặt nghệ thuật, tuy được đánh giá là bước trưởng thành quan trọng của thơ Tố Hữu, là một thành tựu xuất sắc của thơ Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống Pháp, yếu tố cách tân trong tập thơ cũng chưa được nhìn thấy.
    Giải thưởng
    Tập thơ Việt Bắc được tặng giải nhất về thơ của Giải thưởng văn học giai đoạn 1954-1955 của Hội Văn nghệ Việt Nam.

    BÀI THƠ VIỆT BẮC

    Xuất xứ
    Sau chiến thắng Điện Biên, hiệp định Geneve được kư kết, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng. Hồ Chủ tịch và Chính phủ kháng chiến trở về thủ đô Hà Nội tháng 10/1945. Nhân dịp này Tố Hữu viết bài thơ “Việt Bắc”.
    Một vài điều cần biết qua
    1. Việt Bắc là vùng địa lý – chiến khu bao gồm 6 tỉnh, được gọi tắt là: Cao-Bắc-Lạng-Thái-Tuyên-Hà. Trong 9 năm kháng chiến, Việt Bắc là chiến khu, là thủ đô của Chính phủ kháng chiến và Hồ Chủ tịch.
    2. Bài thơ được viết theo thể thơ lục bát gồm 150 ḍòng thơ (câu thơ). Cấu trúc theo hình thức đối đáp của lối hát giao duyên trong dân ca giữa “ḿình” với “ta”.

    Việt Bắc – Tố Hữu

    – Mình về mình có nhớ ta
    Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
    Mình về mình có nhớ không
    Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
    – Tiếng ai tha thiết bên cồn
    Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
    Áo chàm đưa buổi phân li
    Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
    – Mình đi, có nhớ những ngày
    Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
    Mình về, có nhớ chiến khu
    Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
    Mình về, rừng núi nhớ ai
    Trám bùi để rụng, măng mai để già
    Mình đi, có nhớ những nhà
    Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
    Mình về, còn nhớ núi non
    Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
    Mình đi, mình có nhớ mình
    Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
    – Ta với mình, mình với ta
    Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
    Mình đi, mình lại nhớ mình
    Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…
    Nhớ gì như nhớ người yêu
    Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
    Nhớ từng bản khói cùng sương
    Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
    Nhớ từng rừng nứa bờ tre
    Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
    Ta đi, ta nhớ những ngày
    Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
    Thương nhau, chia củ sắn lùi
    Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
    Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
    Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
    Nhớ sao lớp học i tờ
    Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
    Nhớ sao ngày tháng cơ quan
    Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
    Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
    Chày đêm nện cối đều đều suối xa…
    Ta về, mình có nhớ ta
    Ta về ta nhớ những hoa cùng người
    Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
    Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
    Ngày xuân mơ nở trắng rừng
    Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
    Ve kêu rừng phách đổ vàng
    Nhớ cô em gái hái măng một mình
    Rừng thu trăng rọi hòa bình
    Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
    Nhớ khi giặc đến giặc lùng
    Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
    Núi giăng thành lũy sắt dày
    Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
    Mênh mông bốn mặt sương mù
    Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.
    Ai về ai có nhớ không?
    Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
    Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
    Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà…
    Những đường Việt Bắc của ta
    Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
    Quân đi điệp điệp trùng trùng
    Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
    Dân công đỏ đuốc từng đoàn
    Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
    Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
    Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
    Tin vui chiến thắng trăm miềm
    Hòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
    Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
    Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
    Ai về ai có nhớ không?
    Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
    Nắng trưa rực rỡ sao vàng
    Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
    Ðiều quân chiến dịch thu đông
    Nông thôn phát động, giao thông mở đường
    Giữ đê, phòng hạn, thu lương
    Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…
    Ở đâu u ám quân thù
    Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
    Ở đâu đau đớn giống nòi
    Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
    Mười lăm năm ấy ai quên
    Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa
    Mình về mình lại nhớ ta
    Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.
    – Nước trôi nước có về nguồn
    Mây đi mây có cùng non trở về?
    Mình về, ta gửi về quê
    Thuyền nâu trâu mộng với bè nứa mai
    Nâu này nhuộm áo không phai
    Cho lòng thêm đậm cho ai nhớ mình
    Trâu về, xanh lại Thái Bình
    Nứa mai gài chặt mối tình ngược xuôi.
    – Nước trôi, lòng suối chẳng trôi
    Mây đi mây vẫn nhớ hồi về non
    Ðá mòn nhưng dạ chẳng mòn
    Chàm nâu thêm đậm, phấn son chẳng nhòa.
    Nứa mai mình gửi quê nhà
    Nước non đâu cũng là ta với mình
    Thái Bình đồng lại tươi xanh
    Phên nhà lại ấm, mái đình lại vui…
    – Mình về thành thị xa xôi
    Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?
    Phố đông, còn nhớ bản làng
    Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?
    Mình đi, ta hỏi thăm chừng
    Bao giờ Việt Bắc tưng bừng thêm vui?
    – Ðường về, đây đó gần thôi!
    Hôm nay rời bản về nơi thị thành
    Nhà cao chẳng khuất non xanh
    Phố đông, càng giục chân nhanh bước đường.
    Ngày mai về lại thôn hương
    Rừng xưa núi cũ yêu thương lại về
    Ngày mai rộn rã sơn khê
    Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng.
    Than Phấn Mễ, thiếc Cao Bằng
    Phố phường như nấm như măng giữa trời
    Mái trường ngói mới đỏ tươi.
    Chợ vui trăm nẻo về khơi luồng hàng
    Muối Thái Bình ngược Hà Giang
    Cày bừa Ðông Xuất, mía đường tỉnh Thanh
    Ai về mua vại Hương Canh
    Ai lên mình gửi cho anh với nàng
    Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng
    Vải tơ Nam Ðịnh, lụa hàng Hà Ðông
    Áo em thêu chỉ biếc hồng
    Mùa xuân ngày hội lùng tùng thêm tươi
    Còn non, còn nước, còn trời
    Bác Hồ thêm khỏe, cuộc đời càng vui!
    – Mình về với Bác đường xuôi
    Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
    Nhớ ông Cụ mắt sáng ngời
    Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường!
    Nhớ Người những sáng tinh sương
    Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
    Nhớ chân Người bước lên đèo
    Người đi rừng núi trông theo bóng Người…
    – Lòng ta ơn Ðảng đời đời
    Ngược xuôi đôi mặt một lời song song.
    Ngàn năm xưa nước non Hồng
    Còn đây ơn Ðảng nối dòng dài lâu
    Ngàn năm non nước mai sau
    Ðời đời ơn Ðảng càng sâu càng nồng.
    Cầm tay nhau hát vui chung
    Hôm sau mình nhé, hát cùng Thủ đô.

    Những ý lớn của bài thơ
    – Những kỷ niệm ân t́nh sâu nặng một thời gian khổ.
    – Nhớ con người Việt Bắc.
    – Nhớ cảnh Việt Bắc trong 4 mùa.
    – Nhớ chiến khu Việt Bắc oai hùng.
    – Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.

    Tây tiến – Quang Dũng

    <Trở về trang Ngữ văn>

    Tác giả: Quang Dũng

    TÁC PHẨM – TÁC GIẢ
    Nhà thơ Quang Dũng tên thật là Bùi Đình Diệm, sinh năm 1921 tại làng Phượng Trì, huyện Đan Phượng tỉnh Sơn Tây, nay thuộc ngoại thành Hà Nội, và mất vào năm 1988. Ông là một nhà thơ, tác giả của một số bài thơ nổi tiếng như Tây Tiến, Đôi mắt người Sơn Tây, Đôi bờ… ngoài ra còn là một họa sĩ, nhạc sĩ.
    Thời còn cắp sách đến trường, nhà thơ Quang Dũng học Ban trung học tại trường Thăng Long; khi tốt nghiệp ông đi dạy học ở Sơn Tây. Vào những năm chống Pháp, nhà thơ Quang Dũng gia nhập quân đội, đến năm 1945 trở thành phóng viên báo Chiến đấu. Năm 1947, ông được điều đi học Trường bổ túc trung cấp quân sự Sơn Tây. Sau khóa học, về làm đại đội trưởng thuộc tiểu đoàn 212, Trung đoàn Tây Tiến. Cuối năm 1948, sau chiến dịch Tây Tiến, ông làm trưởng tiểu ban tuyên huấn Trung đoàn 52 Tây Tiến, rồi làm trưởng đoàn Văn nghệ Liên khu III.
    Ngoài tài làm thơ, nhà thơ Quang Dũng còn viết rất nhiều truyện ngắn và thoại kịch, cũng như có tranh sơn dầu đem triển lãm cùng với các họa sĩ nổi tiếng khác. Đồng thời ông còn sáng tác nhạc, nhạc phẩm “Ba Vì” của ông từng được mọi người hát trong thời kháng chiến chống Pháp.
    Tháng 8 năm 1951, nhà thơ Quang Dũng xuất ngũ. Sau 1954, ông làm biên tập viên cho báo Văn nghệ, rồi chuyển về Nhà xuất bản Văn học. Sau vụ Nhân Văn – Giai Phẩm, nhà thơ Quang Dũng lui về ẩn thân trong nghèo nàn và bệnh tật. Bấy giờ thơ của ông bị phê bình mang hơi hướng “tiểu tư sản”, vì trong miền Nam thời gian đó, thơ ông được đem ra xuất bản và phổ biến rộng rãi được rất nhiều người hâm mộ. Về sau, như những nhà thơ lớn khác, Nguyễn Bính, Hồ Dzếnh,… ông mai một và mất đi trong âm thầm. Ông mất ngày 13/10/1988 tại bệnh viện Thanh Nhàn, Hà Nội.
    Theo nhạc sĩ Trịnh Hưng, một người bạn rất thân với nhà thơ Quang Dũng kể lại :
    Quang Dũng bắt đầu làm thơ vào năm 16 tuổi với bài “Chiêu Quân”. Các bài thơ tình kế tiếp là “Cố quận”, “Suối tóc”, “Buồn êm ấm”… Anh ấy quân sự giỏi mà cầm kỳ thi họa cũng đủ hết. Tài ba nhiều thứ lắm, người lại cao lớn, đẹp trai. Thời kỳ đó, người ta nhìn anh ấy là một thần tượng vì vẻ đẹp nam nhi hùng tráng, có nhiều tài mà nói chuyện có duyên nữa. Được mọi người coi là thần tượng nhưng anh ấy là người đứng đắn, tử tế.
    Còn về bút hiệu Quang Dũng, nhạc sĩ Trịnh Hưng cho biết tiếp :
    – Lúc bấy giờ, anh ấy mới hai mươi tuổi, đã hoạt động chống Tây. Khi đó, mấy ông Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, Khái Hưng, Hoàng Đạo cũng đang hoạt động chống Tây. Quang Dũng lên Việt Bắc giúp con một người công chức đặc trách tỉnh đó, là cô Loan. Là gái mới, lại thấy ông này đẹp trai, học giỏi thành ra cô ấy yêu ông này ghê gớm lắm. Nhưng Quang Dũng lại không dám tính đến chuyện tình cảm vì sợ đang hoạt động và thấy việc chống Tây chưa thành công, thời gian còn dài sẽ khổ cho đời con gái. Nên từ giã cô ấy, ông sang tỉnh khác hoạt động thì bị Mật thám vây bắt, do đó ông mới trốn sang Tàu, đến học trường Hoàng Phố.
    Trong lúc Quang Dũng ở bên Tàu thì tại quê hương, Nhất Linh viết lại mối tình cô Loan yêu ông ấy (tiểu thuyết Đoạn Tuyệt), nhưng nói tên ra thì sợ không được, thành ra mới đổi tên là Dũng. In cuốn sách ra, Nhất Linh gửi cho ông ấy đang ở bên Tàu. Thấy đề tên là Dũng, ông ấy thích quá, mới bảo “Anh Tường Tam đặt cho mình cái tên Dũng hay lắm, bây giờ phải tìm một cái họ mà phải là họ nào anh hùng, hạp với tên Dũng cơ.”
    Do mẹ Quang Dũng họ Trần, ông ấy cũng thấy cụ Trần Hưng Đạo là người anh hùng, nên lấy họ Trần. Bây giờ phải thêm tên đệm, ông ấy nghĩ mãi ra cái tên “Quang” nên lấy tên là “Trần Quang Dũng”. Có tên Quang Dũng từ khi ông ấy ở bên Tàu. Từ bên Tàu về qua Yên Bái, ông ấy gặp cô Bùi thị Thạch thì lấy làm vợ cho đến ngày ông ấy mất.
    Cho đến nay, nhà thơ Quang Dũng đã xuất bản nhiều tập thơ như : Mây đầu ô, Bài thơ sông Hồng, Thơ Quang Dũng …
    Qua sơ lược tiểu sử trên, các giới văn nghệ sĩ thường có nhận xét về nhà thơ Quang Dũng cho rằng, ông là người đa tài, biết vẽ, thơ hay và hát giỏi. Bài thơ Tây Tiến của ông mang đậm nét hào hùng, bi tráng pha chất lãng mạn, đã được chọn giảng dạy trong giáo trình trung học phổ thông. Một số bài thơ của ông cũng đã được đem ra phổ nhạc như Phạm Duy phổ bài Tây Tiến; Phạm Đình Chương phổ Đôi mắt người Sơn Tây (từ hai bài thơ Đôi bờ và Đôi mắt người Sơn Tây), Cung Tiến với bài Kẻ ở. Đặc biệt bài thơ “Em mãi là 20 tuổi” được 3 nhạc sĩ Việt Dzũng, Phạm Trọng Cầu, Khúc Dương phổ thành ca khúc khác nhau.
    Nói về nhạc phẩm “Đôi mắt người Sơn Tây”. Vào năm 1948, nhà thơ Quang Dũng sáng tác bài “Đôi bờ”, bài thơ này đã gắn liền với tên tuổi của ông từ đó. Qua năm sau, năm 1949, ông viết về hoàn cảnh ly loạn nơi quê nhà, qua bài “Đôi mắt người Sơn Tây”. Đôi mắt này, rất nhiều người cho là của cô nào đó mà Quang Dũng yêu; nhưng thật ra, ông viết cho cô em ruột, là người có đôi mắt rất đẹp. Nhạc sĩ Phạm Đình Chương có quê ngoại cũng ở Sơn Tây, nên đã phổ ý hai bài thơ nói trên vào một tựa nhạc.

    Lịch sử một chuyện tình
    Về người vợ của nhà thơ Quang Dũng, tức bà Bùi Thị Thạch, tác giả Phan Lạc Tiếp từng kể :
    Bà Thạch xưa nổi tiếng là tiểu thư ở xứ sở núi rừng Yên Bái. Lúc đó bà dáng người cao ráo khoảng 1,65m, nước da trắng ngần, thường vận quần soóc trắng và đi xe đạp đua khiến cho bao nhiêu người phải mê mẩn. Đã sang tuổi 23 nhưng bà không ưng ai cho dù các đám hỏi từ sĩ quan, dạy học, tham phán, thừa phái v.v… ngày đêm rập rình dòm ngó.
    Cuối xuân năm 1942, bỗng dưng bên nhà hàng xóm có khách. Khách là một chàng trai trẻ, cao to, phong vận lãng tử, hào hoa, nét mặt nghiêm buồn, thường ngồi bên khung cửa sổ thổi sáo và ngâm câu : “Chàng trai trẻ vốn dòng hào kiệt” (thơ “Chinh phụ ngâm”). Khiến bà Thạch nghĩ người khách này có thể đồng tâm, đồng điệu với mình, vì bà mê “Chinh phụ ngâm” lắm. Bà đã tìm cách nói chuyện với chàng.
    Rồi chàng về Hà Nội. Bà ở lại bâng khuâng. Bà đã làm mấy câu thơ đề dưới ảnh chàng tặng :
    “Mắt rộng tìm chi ở chốn này
    Trần gian hẹp lắm vướng nhiều mây
    Anh đừng can nết phong sương nữa
    Rượu tình em sẽ chuốc anh say”.
    Vài hôm sau, bà nhận được phong thư đầu tiên. Bàng hoàng nhưng không dám tin vào người hay đi khắp chân trời góc bể, không đâu là nhà. Không ngờ từ hôm đó, cứ đều đặn 4 ngày, bà lại nhận được thư của chàng. Thư viết trên giấy pơluya màu xanh, có in hình bông hồng ở góc. Tiếc là bà không giữ được những bức thư này vì những năm ấy, sợ bọn chó săn Tây đánh hơi biết chắc chàng hay về nhà bà nên bà đã đốt sạch.
    Năm 1944, chàng từ biệt bà để đi xa. Chàng hát bài “Biệt ly” của Doãn Mẫn ngay bên chiếc cầu năm xưa để chia tay bà. Giọng của chàng trong trẻo và ấm áp. Năm 1947, Quang Dũng từ nước Tàu trở về, bao cô gái trẻ danh giá đánh tiếng mở lòng, Quang Dũng bảo với gia đình, ông lên Yên Bái nếu cô Thạch lấy chồng rồi thì mới về cưới vợ. Không ngờ bà Thạch vẫn một mực chờ đợi người viễn xứ trở về. Họ thành vợ thành chồng. Lúc đó bà Thạch đã 28 tuổi.
    Thành vợ chồng rồi, họ lại sống xa nhau và đôi lúc gặp nhau trong thoáng chốc, đến năm 1954 mới gặp lại nhau khi bà Thạch sinh cô con gái út Phương Thảo, lần đó nhà thơ Quang Dũng ở nhà để đón tay đứa con vừa lọt lòng mẹ. Từ đó ông bà đã ở bên nhau, chung nhau trong một cuộc sống đầy vất vả.
    Bà Thạch thuộc tầng lớp phụ nữ “nho gia” lấy bốn câu “Tam tòng Tứ dức” làm đầu, một thứ hình tượng người phụ nữ thường nép sau bóng chồng, nhẫn nhịn một đời vì chồng vì con. Bà khéo tay, làm nghề đan len để kiếm sống, và cả đời bà đan len để phụ giúp chồng con.
    Bà Thạch hiểu chồng, bà chấp nhận tất cả :
    “Tôi không mong nữa một kho tàng
    Không ước lầu cao giấc mộng sang
    Người về xin một hồn đơn chiếc
    Một phút bên nhau những ngọc vàng”.
    Và bà cũng từng viết những vần thơ so mình với công chúa Ngọc Hân – vợ vua Quang Trung Nguyễn Huệ khi xưa :
    “Chồng người là nhà vua
    Chồng tôi là nhà thơ
    Cách nhau 3 thế kỷ
    Cùng lưu danh muôn thuở
    Người xưa làm thơ “Ai tư vãn”
    Người nay làm thơ “Trách ai”
    “ai” trước và “ai” sau
    Nỗi niềm có khác nhau?
    Là một kiếp đàn bà đã theo chồng chấp cả…”.
    (còn 1 kỳ)

    TÂY TIẾN
    Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
    Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
    Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
    Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
    ***
    Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
    Heo hút cồn mây súng ngửi trời
    Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
    Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
    ***
    Anh bạn dãi dầu không bước nữa
    Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
    Chiều chiều oai linh thác gầm thét
    Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
    Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
    Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
    ***
    Doanh trại bừng lên hội đuốc, hoa
    Kìa em xiêm áo tự bao giờ
    Khèn lên man điệu nàng e ấp
    Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ
    ***
    Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
    Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?
    Có nhớ dáng người trên độc mộc
    Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?
    ***
    Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
    Quân xanh màu lá dữ oai hùm
    Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
    Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
    ***
    Rải rác biên cương mồ viễn xứ
    Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
    Áo bào thay chiếu anh về đất
    Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
    ***
    Tây Tiến người đi không hẹn ước
    Đường lên thăm thẳm một chia phôi
    Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
    Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

    Phù Lưu Chanh 1948
    Quang Dũng


    ĐÔI MẮT NGƯỜI SƠN TÂY
    Em ở thành Sơn chạy giặc về
    Tôi từ chinh chiến cũng ra đi
    Cách biệt bao lần quê Bất Bạt
    Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì
    oOo
    Vừng trán em vương trời quê hương
    Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương
    Tôi thấy xứ Đoài mây trắng lắm
    Em có bao giờ em nhớ thương
    oOo
    Từ độ thu về hoang bóng giặc
    Điêu tàn thôi lại nối điêu tàn
    Đất đá ong khô nhiều ngấn lệ
    Em có bao giờ lệ chứa chan
    oOo
    Mẹ tôi em có gặp đâu không
    Những xác già nua ngập cánh đồng
    Tôi cũng có thằng em còn bé dại
    Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông
    oOo
    Đôi mắt người Sơn Tây
    U uẩn chiều lưu lạc
    Buồn viễn xứ khôn khuây
    oOo
    Cho nhẹ lòng nhớ thương
    Em mơ cùng ta nhé
    Bóng ngày mai quê hương
    Đường hoa khô ráo lệ
    oOo
    Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
    Về núi Sài Sơn ngắm lúa vàng
    Sông Đáy chậm nguồn quanh phủ quốc
    Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng
    oOo
    Bao giờ tôi gặp em lần nữa
    Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa
    Đã hết sắc mầu chinh chiến cũ
    Còn có bao giờ em nhớ ta

    ĐÔI BỜ
    Thương nhớ ơ hờ, thương nhớ ai?
    Sông xa từng lớp lớp mưa dài
    Mắt kia em có sầu cô quạnh
    Khi chớm heo về một sớm mai ?
    oOo
    Rét mướt mùa sau chừng sắp ngự
    Bên này em có nhớ bên kia
    Giăng giăng mưa bụi quanh phòng tuyến
    Hiu hắt chiều sông lạnh bến Tề
    oOo
    Khói thuốc xanh dòng khơi lối xưa
    Đêm đêm sông Đáy lạnh đôi bờ
    Thoáng hiện em về trong đáy cốc
    Nói cười như chuyện một đêm mơ
    oOo
    Xa quá rồi em người mỗi ngã
    Bên này đất nước nhớ thương nhau
    Em đi áo mỏng buông hờn tủi
    Dòng lệ thơ ngây có dạt dào ?

    Khát quát văn học Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến hết thế kỉ XX

    <Trở về trang Ngữ văn>

    I. MỤC ĐÍCH CHUYÊN ĐỀ

    Chuyên đề này được biên soạn nhằm giúp các em học sinh có cái nhìn khái quát về diện mạo văn học Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến hết thế kỉ XX.

    Bối cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội ảnh hưởng như thế nào đến văn học? Trong một bối cảnh như vậy, nền văn học đã diễn tiến ra sao? Đâu là những đặc điểm chung bao trùm mọi sáng tác phôi thai trong thời kì ấy? Các em sẽ có nền tảng thi pháp thời kì văn học để soi chiếu, đối sánh trong từng tác phẩm cụ thể.

    II. KIẾN THỨC CƠ BẢN

    1. Khái quát văn học Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975

    a. Vài nét về hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa

    + Sự lãnh đạo của Đảng với đường lối văn nghệ xuyên suốt (Bản đề cương văn hóa năm 1943) > yếu tố trọng yếu chấm dứt sự phân hóa phức tạp của văn hóa văn học nước ta dưới ách thực dân, tạo nên một nền văn nghệ thống nhất sau 1945.

    + Hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ trường kí suốt 30 năm đã tác động sâu sắc, toàn diện tới đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc, trong đó có văn nghệ, tạo nên những đặc điểm riêng biệt của một nền văn học hình thành và phát triển trong hoàn cảnh chiến tranh gian khổ, ác liệt.

    + Nền kinh tế nghèo nàn và chậm phát triển, điều kiện giao lưu văn hóa bị hạn chế (chủ yếu tiếp xúc và chịu ảnh hưởng văn hóa các nước xã hội chủ nghĩa, cụ thể là Liên Xô và Trung Quốc…).

    Trong hoàn cảnh như vậy, văn học giai đoạn 1945- 1975 vẫn phát triển và đạt được nhiều thành tựu, đóng góp cho lịch sử văn học những giá trị riêng.

    b. Quá trình phát triển và những thành tựu chủ yếu

    Chia làm 3 chặng

    + 1945- 1954:

    – 1945- 1946: sáng tác phản ánh không khí hồ hởi mê say khi mới dành độc lập, ca ngợi “ cuộc tái sinh màu nhiệm” của dân tộc (Tình sông núi – Mai Ninh, Ngọn quốc kì- Xuân Diệu, Vui bất tuyệt – Tố Hữu…)

    – Từ cuối 1946: tập trung phản ánh cuộc kháng chiến chống Pháp. Văn học gắn bó sâu sắc với đời sống cách mạng và kháng chiến; hướng tới khám phá sức mạnh và phẩm chất tốt đẹp của quần chúng công nông binh; thể hiện niềm tự hào dân tộc và niềm tin vào tương lai tất thắng của kháng chiến.

    – Thể loại:

    · Truyện và kí: mở đầu cho văn xuôi kháng chiến (Một lần tới thủ đô, Trận phố Ràng của Trần Đăng, Truyện ngắn Đôi mắt và nhật kí Ở rừng của Nam Cao, truyện ngắn Làng của Kim Lân…), hình thành những tác phẩm khá dày dặn (Vùng mỏ của Võ Huy Tâm, Đất nứớc đứng lên của Nguyên Ngọc, Truyện Tây Bắc của Tô Hoài…)

    · Thơ: đạt được nhiều thành tựu ( Cảnh khuya, Rằm tháng giêng của Hồ Chí Minh, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Tây Tiên của Quang Dũng…)

    · Kịch: một số vở kịch gây sự chú ý (Bắc Sơn, Những người ở lại của Nguyễn Huy Tưởng,…)

    + 1955 – 1964:

    – Nội dung bao trùm: Hình ảnh người lao động, những đổi thay của con người trong bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội với cảm hứng lãng mạn, lạc quan…

    – Văn xuôi: mở rộng đề tài, bao quát nhiều vấn đề, nhiều phạm vi của hiện thực đời sống.

    · Đề tài kháng chiến chống Pháp (Sống mãi với thủ đô, Cao điểm cuối cùng, Trứớc giờ nổ súng…)

    · Đề tài hiện thực đời sống trước cách mạng tháng Tám (Vợ nhặt, Mười năm, Vỡ bờ…)

    · Đề tài công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn với sự đổi đời của con người (Sông Đà, Mùa lạc, Cái sân gạch…)

    – Kịch nói: một số tác phẩm được dư luận chú ý.

    + 1965 – 1975:

    – Cao trào sáng tác viết về cuộc kháng chiến chống Mĩ trong cả nước > chủ đề bao trùm: tinh thần yêu nước, ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

    – Văn xuôi:

    · Những tác phẩm truyện, kí ra đời ngay trên tiền tuyến đầy máu lửa đã phản ánh nhanh nhạy và kịp thời cuộc chiến đấu của nhân dân miền Nam anh dũng (Người mẹ cầm súng, Rừng xà nu, Hòn đất…)

    · Miền Bắc: truyện, kí cũng phát triển (kí chống Mĩ của Nguyễn Tuân, Dấu chân người lính, Bão biển…)

    · Thơ: đạt nhiều thành tựu xuất sắc

    o Mở rộng và đào sâu chất liệu hiện thực.

    o Tăng cường sức khái quát, chất suy tưởng, chính luận

    o Ghi nhận một thế hệ nhà thơ trẻ chống Mĩ tài năng (Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Bằng Việt…) và hàng loạt các tác phẩm gây tiếng vang (Tập thơ Ra trận, Máu và hoa của Tố Hữu, Hoa ngày thường – Chim báo bão của Chế Lan Viên; Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm…

    · Kịch: cũng có những thành tựu đáng ghi nhận.

    Văn học vùng địch tạm chiếm: vì nhiều lí do không đạt được nhiều thành tựu lớn nếu đánh giá cả mặt tư tưởng và nghệ thuật.

    c. Những đặc điểm cơ bản

    c.1. Nền văn học chủ yếu vận động theo hướng cách mạng hóa, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước > Đặc điểm bản chất của văn học từ năm 1945- 1975.

    + Mô hình nhà văn – chiến sĩ

    + Khuynh hướng tư tưởng chủ đạo: tư tưởng cách mạng, văn học là vũ khí phục vụ sự nghiệp cách mạng.

    + Sự vận động, phát triển của văn học ăn nhịp với từng chặng đường lịch sử của dân tộc> văn học là tấm gương phản chiếu những vấn đề trọng đại của lịch sử dân tộc.

    c.2. Nền văn học hướng về đại chúng

    + Đại chúng: đối tượng phản ánh, đối tượng phục vụ, nguồn bổ sung cho lực lượng sáng tác.

    + Nội dung: cuộc sống nhân dân lao động, con đường tất yếu đến với cách mạng, xây dựng và khám phá vẻ đẹp hình tượng quần chúng…

    + Hình thức: ngắn gọn, nội dung dễ hiểu, chủ đề rõ ràng; hình ảnh lấy từ kho tàng văn học dân gian; ngôn ngữ giản dị, trong sáng.

    c.3. Nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn > Đặc điểm thể hiện khuynh hướng thẩm mĩ của văn học 1945- 1975.

    + Khuynh hướng sử thi:

    – Đề tài: những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và tính chất toàn dân tộc

    – Nhân vật chính: những con người đại diện cho tinh hoa, khí phách, phẩm chất, ý chí toàn dân tộc, tiêu biểu cho lí tưởng dân tộc hơn là khát vọng cá nhân. Văn học khám phá con người ở khía cạnh trách nhiệm, bổn phận, lẽ sống lớn, tình cảm lớn.

    + Cảm hứng lãng mạn:

    – Là cảm hứng khẳng định cái tôi dạt dào tình cảm hướng tới cách mạng.

    – Biểu hiện: ca ngợi vẻ đẹp của con người mới, cuộc sống mới, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tin tưởng vào tương lai đất nước.

    Ø Cảm hứng nâng đỡ con người vượt lên những chặng đường chiến tranh gian khổ, máu lửa, hi sinh.

    + Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn kết hợp tạo tinh thần lạc quan thấm nhuần cả nền văn học 1945 – 1975 và tạo nên đặc điểm cơ bản của văn học 1945- 1975.

    2. Vài nét khái quát văn học Việt Nam từ năm 1945 đến hết thế kỉ XX.

    a. Hoàn cảnh lịch sử, xã hội và văn hoá

    + 1975- 1985: nước nhà hoàn toàn độc lập, thống nhất nhưng gặp phải nhiều khó khăn thử thách mới.

    + Từ 1986: công cuộc đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực > văn học có điều kiện giao lưu, tiếp xúc mạnh mẽ > đổi mới văn học phù hợp với qui luật khách quan và nguyện vọng của văn nghệ sĩ.

    b. Những chuyển biến và một số thành tựu

    + Thơ:

    – Không tạo được sự lôi cuốn như giai đoạn trước nhưng cũng có những tác phẩm đáng chú ý (Chế Lan Viên với khát vọng đổi mới thơ ca qua các tập Di cảo, Xuân Quỳnh, Nguyễn Duy, Thanh Thảo…)

    – Trường ca nở rộ (Những người đi tới biển – Thanh Thảo, Đường tới thành phố – Hữu Thỉnh, Trường ca sư đoàn – Nguyễn Đức Mậu…)

    + Văn xuôi:

    – Có nhiều khởi sắc hơn thơ ca.

    – Ý thức đổi mới cách tiếp cận hiện thực đời sống, cách viết về chiến tranh tạo được sự chú ý với bạn đọc (Đất trắng – Nguyễn Trọng Oánh, Gặp gỡ cuối năm – Nguyễn Khải, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành – Nguyễn Minh Châu…)

    – Kịch nói: phát triển mạnh mẽ (Hồn Trương Ba, da hàng thịt – Lưu Quang Vũ, Mùa hè ở biển – Xuân Trình…)

    Ø Nhận xét:

    + Văn học vận động theo hướng dân chủ hoá, mang tính nhân văn và nhân bản sâu sắc.

    + Đề tài: phong phú, đa dạng.

    + Cách tiếp cận và khám phá con người: mối quan hệ phức tạp của đời sống cá nhân, thậm chí cả đời sống tâm linh, quan tâm tới đời sống cá nhân > Hướng nội là cái mới tiêu biểu của văn học thời kì này.

    + Tuy nhiên văn học còn nảy sinh một số xu hướng tiêu cực.

    III. CỦNG CỐ KIẾN THỨC

    Đề 1: Trình bày những nét chính về bối cảnh lịch sử, văn hoá, xã hội có ảnh hưỏng tới sự hình thành và phát triển của văn học Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám đến năm 1975.

    Đề 2: Nêu tóm tắt các chặng phát triển và thành tựu mỗi chặng của văn học Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám đến năm 1975.

    Đề 3: Nêu và phân tích ngắn gọn những đặc điểm chính của văn học Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám đến năm 1975.

    Đề 4: Trình bày khái quát về văn học Việt Nam từ sau 1975 đến hết thế kỉ XX.

    Gợi ý giải đề

    Đề 1:

    + Phân tích đề:

    – Nội dung: chỉ trình bày bối cảnh (lịch sử, văn hóa, xã hội) từ sau cách mạng tháng Tám đến năm 1975 có ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển của văn học.

    – Hình thức: trình bày ngắn gọn > nổi bật những nét chính.

    + Hướng dẫn:

    – Mối quan hệ giữa bối cảnh thời đại và văn học (ý dành cho học sinh khá giỏi)

    · Văn học bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống > bối cảnh thời đại ít nhiều dội âm vang trong tác phẩm > Bối cảnh là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới đặc điểm thi pháp của một thời kì văn học.

    · Lịch sử (một trong những yếu tố của bối cảnh thời đại) ảnh hưởng tới sự phận chia giai đoạn văn học. Tuy nhiên không phải lúc nào giai đoạn văn học cũng trùng khít với giai đoạn lịch sử bởi văn học có sự vận động và phát triển nội tại của nó.

    – Bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa ảnh hưởng tới văn học Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám đến năm 1975 (trọng tâm)

    · Sự lãnh đạo của Đảng với đường lối văn nghệ xuyên suốt tạo nên một nền văn nghệ thống nhất sau 1945.

    · Hai cuộc kháng chiến trường kí suốt 30 năm tạo nên những đặc điểm riêng biệt của một nền văn học hình thành và phát triển trong hoàn cảnh chiến tranh gian khổ, ác liệt.

    · Nền kinh tế nghèo nàn và chậm phát triển, điều kiện giao lưu văn hóa bị hạn chế.

    – Khẳng định: Bối cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội đã có ảnh hưởng quan trọng tới sự hình thành và phát triển của văn học (chỉ nêu mà không phân tích)

    · Văn học Việt Nam 1945- 1975 chia làm 3 giai đoạn, ứng với các giai đoạn lịch sử > hiếm có thời kì nào, mốc phân chia văn học lại trung khít với mốc phân chia lịch sử như vậy.

    · Mang những đặc điểm riêng biệt (Nền văn học chủ yếu vận động theo hướng cách mạng hóa, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước; hướng về đại chúng; chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn)

    Đề 2:

    + Phân tích đề:

    – Dạng đề: thuần tái hiện kiến thức văn học sử.

    – Nội dung: các chặng phát triển và thành tựu mỗi chặng.

    – Hình thức: trình bày ngắn gọn.

    + Hướng dẫn:

    – Khái quát: Văn học Việt Nam từ sau 1945- 1975 chia làm 3 chặng và mỗi chặng đều đạt được những thành tựu đáng kể.

    – Cụ thể (trọng tâm)

    · Chặng 1 (1945- 1954)

    · Chặng 2 (1955 – 1964)

    · Chặng 3 (1965- 1975)

    – Nhận xét (ý dành cho học sinh giỏi)

    · Thành tựu chủ yếu trên các thể loại: thơ, truyện và kí

    · Các thể loại phát triển theo xu hướng khác nhau (có thể loại đạt đỉnh cao ở chặng này nhưng lại lắng xuống ở chặng khác). Sự lựa chọn thể loại chịu sự chi phối sâu sắc của mục tiêu cách mạng.> thành tựu văn học gắn bó khăng khít và gần như thuận chiều với xu hướng vận động của lịch sử (gợi nhớ thời kì văn học mang hào khí Đông A của nhà Trần).

    Ø Xuất phát từ quan niệm: văn học là một loại vũ khí đấu tranh cách mạng.

    Đề 3:

    + Phân tích đề:

    – Nội dung: những đặc điểm của văn học Việt Nam từ 1945- 1975.

    – Hình thức: nêu và phân tích ngắn gọn.

    + Hướng dẫn:

    – Nêu lần lượt 3 đặc điểm.

    – Mỗi đặc điểm:

    · Phân tích ngắn gọn

    · Lấy dẫn chứng:

    o Loại dẫn chứng: Dẫn chứng khái quát (khoảng 3 dẫn chứng, nêu tên), dẫn chứng điểm (1 dẫn chứng, phân tích ngắn gọn)

    o Cách lấy dẫn chứng điểm: mỗi đặc điểm phân tích ngắn gọn 1 dẫn chứng hoặc sau khi trình bày 3 đặc điểm, phân tích 1 dẫn chứng có thể hiện cả 3 đặc điểm đó.

    Đề 4:

    + Phân tích đề:

    – Nội dung: văn học Việt Nam từ sau 1975 đến hết thế kỉ XX.

    – Hình thức: trình bày khái quát.

    + Hướng dẫn:

    Chia ý theo các phần trong Kiến thức cơ bản

    – Hoàn cảnh lịch sử, xã hội và văn hoá.

    – Những chuyển biến và một số thành tựu.

    – Nhận xét.

    Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc

    <Trở về trang Ngữ văn>

    Tác giả: Phạm Văn Đồng (1096 - 2000)

    Mục tiêu bài học

    -Tiếp thu được cách nhìn nhận, đánh giá đúng đắn, sâu sắc mới mẻ của PVĐ về con người và thơ văn NĐC từ đó thấy rõ ràng trong bầu trời văn nghệ của dân tộc Việt Nam, NĐC là một vì sao “càng nhìn càng sáng”.
    – Thấy sức thuyết phục, lôi cuốn của bài văn: các lí lẽ xác đáng, lập luận chặt chẽ, ngôn từ trong sáng, giàu hình ảnh, giàu nhiệt huyết, kết hợp hài hòa giữa sự trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống với những vấn đề trọng đại đang đặt ra cho thời kì mình
    -Củng cố kĩ năng viết bài văn nghị luận
    -Hiểu và trân trọng cụ Nguyễn Đình Chiểu

    Tìm hiểu chung

    Văn bản
    a.Hoàn cảnh và mục đích sáng tác

    -Bài viết đăng trên tạp chí văn học số 7-1963, nhân kỉ niệm ngày mất của Nguyễn Đình Chiểu – nhà thơ mù yêu nước sâu sắc , người đã dựng nên bức tượng đài bi tráng về người nghĩa dân vùng lên đánh Pháp cứu nước trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc .( 3/7/1888).
    – Tác phẩm được đánh giá là : áng văn tiêu biểu trong văn xuôi nghị luận nửa cuối thế kỉ XX ở nước ta , được chọn in trong tuyển tập Tiểu luận –Phê bình “ Văn học Việt Nam sau cách mạng tháng tám” ( NXB văn học , hà Nội 1993 )
    – Năm 1963, tình hình chiến tranh ở miền Nam có nhiều biến động lớn : Mỹ leo thang khủng bố phong trào cách mạng , Phong trào Đồng Khởi Bến Tre ( nơi Nguyễn Đình Chiểu trút hơi thở cuối cùng ) diễn ra sôi trào , ác liệt :

    Quê ta sông dậy tiếng chèo ghe ,
    Ghe đưa trăm xác đi đòi mạng ,
    Rầm rập ngày đêm lên Bến Tre .
    Người chết đi cùng người sống đây
    Tử sinh một dạ trả thù này ,
    Võ trang mấy trận vang Bình Đại ,
    Cờ phất bừng tươi đất Mỏ Cày .

    ( Lá thư Bến Tre – Tố Hữu )

    – Trong giới nghiên cứu , một số người còn đánh giá thấp giá trị văn chương Nguyễn Đình Chiểu hoặc hiểu chưa đúng vai trò của văn chương Nguyễn Đình Chiểu với lịch sử văn học nước nhà . Nhiều nhà nghiên cứu quan niệm văn chương cần phải gọt giũa , trau truốt , hoa mĩ . Trong khi tiêu chí ấy lại không thể áp dụng vào trường hợp Nguyễn Đình Chiểu vì ông là nhà thơ mù , điều kiện chỉnh sửa gọt giũa ngôn từ rất hạn chế .
    – Tác phẩm nhằm mục đích : tưởng nhớ Nguyễn Đình Chiểu , định hướng điều chỉnh cách nhìn nhận về giá trị , vị trí thơ văn Nguyễn Đình Chiểu . khơi dậy tinh thần yêu nước , đấu tranh chống Mĩ cứu nước .

    Luận đề tác phẩm
    – Nguyễn Đình Chiểu là ngôi sao sáng trong văn nghệ dân tộc

    Bố cục: 3 phần

    Phần mở bài: từ đầu đến “một trăm năm”.
    => Nêu vấn đề:Cách nhìn mới mẻ , khoa học về Nguyễn Đình Chiểu .
    Phần thân bài: tiếp đến “ còn vì văn hay của “ Lục Vân Tiên”
    =>trình bày những quan điểm mới mẻ về văn thơ Nguyễn Đình Chiểu :
    -Luận điểm 1: Con người và quan niệm văn chương của Nguyễn Đình Chiểu .
    -Luận điểm 2: Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu.
    -Luận điểm 3: Truyện thơ Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu.

    Phần kết bài: phần còn lại. => Nêu cách đánh giá đúng đắn con người và sự nghiệp thơ văn của NĐC.Qua đó thể hiện tình cảm đối với NĐC

    * Nhận xét về kết cấu :

    – Thông thường , trong bài văn nghị luận về một tác giả văn học nào đó , người ta thường phân tích các tác phẩm chính của tác giả , sau mới đánh giá về con người , vai trò của nhà văn . Nhưng ở bài viết này , tác giả Phạm Văn Đồng làm ngược lại , trình bày con người –quan điểm sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu trước , sau đó mới trình bày về các tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Đình Chiểu .

    – Bài viết cũng không trình bày các luận điểm theo trật tự thời gian ( tác phẩm sáng tác trước thì trình bày trước ) . Ở đây , tác phẩm Lục Vân Tiên được sáng tác trước thì lại được PV Đ đưa vào cuối bài viết .

    => Với trật tự này , Phạm Văn Đồng muốn nhấn mạnh Nguyến Đình Chiểu là con người đặc biệt , để hiểu thơ văn ông trước hết phải hiểu con người ông , văn thơ ông gắn liền với thực tế , vận mệnh dân tộc .

    Đọc-Hiểu văn bản
    1.Phần mở đầu (Nêu vấn đề) : Cách nhìn khoa học mới mẻ về N Đ C

    – Cách đặt vấn đề trực tiếp : Khẳng định N Đ C là ngôi sao , một nhà thơ lớn , cần được sáng tỏ hơn nữa ;

    – Dùng hình ảnh ẩn dụ so sánh :

    + N Đ C như “ Ngôi sao” – tinh tú , kết tinh tinh hoa vẻ đẹp của trời đất , vũ trụ .

    + ”Ngôi sao N Đ C có ánh sáng khác thường” => ánh sáng đẹp nhưng chưa quen nhìn nên khó phát hiện ra .

    + “ Cần phải chăm chú nhìn mới thấy” => cách nói ẩn dụ , nghĩa là cần phải nghiên cứu kĩ lưỡng , nghiêm túc mới khám phá được vẻ đẹp văn thơ Nguyễn Đình Chiểu .

    – Nêu phản đề , lí do chưa đánh giá đúng giá trị văn thơ N Đ C :

    + Một là “ chỉ biết Nguyễn Đình Chiểu là tác giả của Lục Vân Tiên và hiểu Lục Vân Tiên khá thiên lệch về nội dung và văn …” .

    + Hai là “ còn rất ít biết thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu”.

    * Nhận xét đoạn mở đầu :

    – Đoạn văn ngắn gọn , nêu vấn đề một cách dễ hiểu , hấp dẫn , thuyết phục , mang tính gợi mở , khái quát được những nội dung sẽ diễn giải ở phần sau ( đánh giá Lục Vân Tiên , đánh giá thơ văn yêu nước Nguyễn Đình Chiểu) .

    – Đoạn văn đã nêu được Nội dung vấn đề : Nguyễn Đình Chiểu là một nhân cách trong sáng, một nhà thơ yêu nước, tác gia văn học cần được nghiên cứu tìm hiểu và đề cao hơn nữa.

    – Cách nhìn nhận về Nguyễn Đình Chiểu đúng đắn , sâu sắc , khoa học ,mới mẻ .

    – Cách nhìn này vừa bộc lộ niềm ngưỡng mộ tài năng , tâm huyết của danh nhân Nguyễn Đình Chiểu , vừa mang tính định hướng cho việc nghiên cứu tiếp cận thơ văn Nguyễn Đình Chiểu .

    2. Cách triển khai vấn đề :

    A.Luận điểm 1: Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ yêu nước .

    – Luận cứ 1 quê hương, thời cuộc và mất mát riêng và tư tưởng .

    + Nhà nho sống trong cảnh nước nhà lâm nguy , khắp nơi nhân dân đấu tranh đánh giặc cứu nước

    + Nhà thơ mù

    + Dùng văn thơ ghi lại tâm huyết với dân tộc , ghi lại thời kì lịch sử khổ nhục –vĩ đại , làm vũ khí chiến đấu.

    => Vẻ đẹp tấm gương trong sáng : tinh thần yêu nước căm thù giặc , nghị lực vượt khó để vươn lên phi thường .

    – Luận cứ 2 : quan điểm thơ văn .

    + Nhà văn trước hết phải có nhân cách : Cảnh riêng và cảnh đất nước càng đen tối thì khí tiết càng phải cao cả , rạng rỡ : Sự đời thà khuất đôi tròng thịt – Lòng đạo xin tròn một tấm gương” và “ Kiễn nghĩa bất vi vô dõng dã” ( Thấy việc nghĩa mà không làm thì không phải là kẻ anh hùng ) => Nguyễn Đình Chiểu coi trọng nhân cách và trách nhiệm của nhà văn với thời cuộc .

    + Trong thơ văn phải ngụ ‎ khen chê rõ ràng : Học theo ngòi bút chí công – Trong thơ cho ngụ tấm lòng Xuân Thu”

    + Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu là thơ văn chiến đấu, đánh thẳng vào giặc ngoại xâm và tôi tớ của chúng : Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm – Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà” và “ Thấy nay cũng nhóm văn chương – Voc dê da cọp khôn lường thực hư !”

    => Quan điểm rất tích cực , tiến bộ ,sâu sắc , gắn nhà văn và văn chương với hiện thực cuộc sống , với vận mệnh dân tộc , coi trọng chức năng giáo huấn , phê phán , cảnh tỉnh của văn chương .

    b.Luận điểm 2 : Nội dung thơ văn yêu nước Nguyễn Đình Chiểu .

    – Luận cứ 1 : Phạm Văn Đồng khẳng định thơ văn Nguyễn Đình Chiểu tái dựng sống động không khí kháng Pháp oanh liệt , bền bỉ của nhân dân Nam Bộ :

    + Quân triều đình đánh Pháp thua , đầu hàng, cắt đất cho giặc .

    + Các tầng lớp nhân dân ( nông dân , sĩ phu) vùng dậy đánh giặc .

    + Sự lan rộng của cuộc chiến tranh nhân dân .

    – Luận cứ 2: Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi những người anh hùng cứu nước ; khóc than tiếc thương những liệt sĩ tận trung, trọn nghĩa với dân với nước : Trương Định , Thủ khoa Huân , Nguyễn Trung Trực , …

    – Luận cứ 3 : Đánh giá tác phẩm “ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”

    + “ Khúc ca của những người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang” .

    “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc” .
    “Muôn kiếp nguyện được trả thù kia”

    + Liên tưởng , so sánh với áng văn chính luận bất hủ : Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi .

    – Luận cứ 4 : “Xúc cảnh” : đoá hoa, hòn ngọc, …

    => Nhận xét :

    – Cách đánh giá thơ văn yêu nước Nguyễn Đình Chiểu sâu sắc, khoa học , chặt chẽ và toàn diện .

    – Dẫn chứng tiêu biểu , xúc động , giọng văn khi hào hùng sôi sục , khi nghẹn ngào thương cảm .

    – Phạm Văn Đồng qua đó : Bộc lộ thái độ ngợi ca ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu và tâm huyết với truyền thống yêu nước , bất khuất cảu nhân dân ta

    c. Luận điểm 3 : Đánh giá tác phẩm lớn nhất của Nguyễn Đình Chiểu : Lục Vân Tiên .

    – Luận cứ 1 : giá trị nội dung của tác phẩm Lục Vân Tiên :

    + ca ngợi chính nghĩa , những đạo đức đáng quí ở đời , ca ngợi những con người trung nghĩa .

    + hình tượng nhân vật không khô cứng theo khuôn mẫu của văn học Nho gia mà gần gũi , giản dị , sống động.

    – Luận cứ 2 : giá trị nghệ thuật.

    +Lối văn nôm na giản dị , là văn nói , văn kể .

    + Nhiều người thuộc , nhớ, truyền miệng nhau tác phẩm , nhân dân miền Nam say sưa tác phẩm .

    => Nhận xét :

    – Phạm Văn Đồng đã chỉ rõ rằng : Người ta say sưa nghe Lục Vân Tiên không chỉ về nội dung mà vì văn hay của Lục Vân Tiên , hay chính ở sự giản dị , mộc mạc , chân chất , dễ hiểu , dễ thuộc , gần gũi với lời ăn tiếng nói của nhân dân.. Đây là nhận định có cơ sở khoa học xác đáng .

    – Đó cũng chính là định hướng phê bình văn học: Khi đánh giá giá trị một tác giả , tác phẩm văn chương , không nên chỉ căn cứ vào tính hoa mĩ trau truốt của ngôn từ mà còn phải căn cứ vào ảnh hưởng của nội dung tác phẩm đến tâm thức người đọc , sức sống của tác phẩm trong người đọc .

    3. Kết thúc vấn đề :

    – Khẳng định lại vị trí , vai trò của Nguyễn Đình Chiểu trong lịch sử văn học :

    + Một chí sĩ yêu nước , một nhà thơ lớn của nước ta .

    + Thơ văn ông nêu cao sứ mạng của văn học , người nghệ sĩ –chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng .

    – Bộc lộ lòng tưởng nhớ , tự hào về Nguyễn Đình Chiểu .

    III.Tổng kết

    – Bài văn là một tiểu luận văn chương đặc sắc , có sức lôi cuốn mạnh mẽ do cách nghị luận xác đáng , chặt chẽ , xúc động thiết tha , nhiều hình ảnh ngôn từ đặc sắc , đặt sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu trong mối liên hệ với cuộc kháng chiến chống Mĩ.

    – Đây là bài viết có nội dung mới mẻ, sâu sắc , xúc động , ngợi ca Nguyễn Đình Chiểu –người trọn đời dùng ngòi bút làm vũ khí chiến đấu cho dân , cho nước , một ngôi sao sáng trong nền văn nghệ dân tộc Việt Nam

    – Tác phẩm còn bộc lộ thái độ trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống và mối liên quan sâu sắc giữa truyền thống với những vấn đề trọng đại của dân tộc .

    Tác giả và tác phẩm

    Phạm Văn Đồng bí danh là Tô, sinh ngày 01/3/1906 tại làng Thi Phổ Nhất, nay thuộc xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi; là nhà hoạt động chính trị, nhà văn hoá lớn của Việt Nam.

    Những năm 1925- 1926, khi đang học tại Hà Nội, ông tham gia phong trào học sinh đấu tranh đòi thả cụ Phan Bội Châu (1925) và để tang cụ Phan Chu Trinh (1926). Sau đó, ông đi Quảng Châu (Trung Quốc) dự lớp huấn luyện do Nguyễn Ái Quốc tổ chức và được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (1926).

    Cuối năm 1927, ông về nước, tham gia hoạt động cách mạng ở Sài Gòn, đến đầu năm 1929, được cử vào Kỳ bộ thanh niên Nam kỳ. Tháng 5/1929, ông đi Hồng Kông (Trung Quốc) dự đại hội của tổ chức này và được bầu vào Tổng bộ và Ban trù bị thành lập Đảng Cộng sản. Tháng 7/1929, Phạm Văn Đồng trở về Sài Gòn hoạt động cách mạng và bị thực dân Pháp bắt, kết án 10 năm tù, đày đi Côn Đảo. Tháng 7/1936, do thắng lợi của Mặt trận Bình dân Pháp, thực dân Pháp ở Đông Dương buộc phải trả tự do cho Phạm Văn Đồng nhưng lại đưa ông về quê quản thúc. Trở về Quảng Ngãi một thời gian, ông bí mật liên lạc với tổ chức Đảng ở Quảng Ngãi, tiếp tục hoạt động cách mạng, sau đó ra Hà Nội tham gia hoạt động công khai.

    Tháng 5/1940, Phạm Văn Đồng đi Côn Minh (Trung Quốc) gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Sau đó, ông được cử đi hoạt động cách mạng ở Liễu Châu, Tĩnh Tây (Trung Quốc). Đầu năm 1942, ông được cử về Cao Bằng xây dựng căn cứ địa cách mạng ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn. Tháng 8/1945, Phạm Văn Đồng dự Đại hội Quốc dân Tân Trào và được vào Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam. Cách mạng Tháng Tám thành công, ông trở thành Bộ trưởng Bộ Tài chính trong Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tháng 5/1946, ông đảm nhận nhiệm vụ Trưởng phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đàm phán với Chính phủ Cộng hoà Pháp tại Hội nghị Fôngtenơblô (Fontainnebleau).

    Trước ngày kháng chiến toàn quốc (19/12/1946), Phạm Văn Đồng được cử vào Quảng Ngãi làm đại diện Trung ương Đảng và Chính phủ tại miền Nam Trung bộ, trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở đây. Đầu năm 1949, ông được điều về chiến khu Việt Bắc. Tháng 8/1949, ông được cử làm Phó Thủ tướng Chính phủ, Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng. Tháng 5/1954, ông là Trưởng đoàn đại biểu của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Hội nghị Giơnevơ (Genève) về Đông Dương. Từ tháng 9/1954, ông giữ chức Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Trưởng ban Đối ngoại của Trung ương Đảng. Ông là đại biểu Quốc hội liên tục từ khoá I (1946- 1960) đến khoá VII (1981- 1987). Từ tháng 9/1955 đến tháng 12/1986 (31 năm), ông liên tục giữ cương vị Thủ tướng Chính phủ (có lúc gọi là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng). Trong nhiều năm ông đảm đương nhiệm vụ Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng, Chủ tịch Hội đồng chi viện cho tiền tuyến.

    Năm 1947 ông được bầu bổ sung ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, năm 1949 chuyển thành ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tại các Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (2/1951), lần thứ III (9/1960), lần thứ IV (12/1976), lần thứ V (3/1982), Phạm Văn Đồng đều được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986), lần thứ VII (6/1991) và lần thứ VIII (6/1996), ông được Ban Chấp hành Trung ương Đảng cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương; đến tháng 12/1997 được kết thúc nhiệm vụ theo yêu cầu của ông.

    Phạm Văn Đồng qua đời tại Hà Nội ngày 29/4/2000.
    – Tác phẩm tiêu biểu:
    Tổ quốc ta, nhân dân ta và người nghệ sĩ.
    Hiểu biết, khám phá và sáng tạo để phục vụ tổ quốc và chủ nghĩa xã hội(1968)
    Tiếng Việt một công cụ cực kì lợi hại trong công cuộc cách mạng tưtưởng, văn hóa( 1979)…

    (Theo QuangNgai.gov.vn)

    Tuyên ngôn độc lập – Hồ Chí Minh

    <Trở về trang Ngữ văn>

    Tham khảo bài giảng

    Tác giả : Hồ Chí Minh

    Tác giả : Hồ Chí Minh

    Hoàn cảnh lịch sử

    19/8/1945 chính quyền ở thủ đô Hà Nội đă về tay nhân dân ta. 23/8/1945, tại Huế trước hàng vạn đồng bào ta, vua Bảo Đại thoái vị. 25/8/1945, gần 1 triệu đồng bào Sài G̣n – Chợ Lớn quật khởi đứng lên giành chính quyền. Chỉ không đầy 10 ngày, Tổng khởi nghĩa và Cách mạng tháng Tám đă thành công rực rỡ.
    Cuối tháng 8/1945, tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Hà Nội, lănh tụ Hồ Chí Minh soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. Và ngày 2/9/1945; tại quảng trường Ba Đ́nh, Hà Nội, Người thay mặt Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trước hàng chục vạn đồng bào ta, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, mở ra một kỷ nguyên mới Độc lập, Tự do.

    Những điều cần biết

    1. Cơ sở pháp lư và chính nghĩa của bản Tuyên ngôn Độc lập là khẳng định quyền b́nh đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của con người. Đó là những quyền không ai có thể xâm phạm được; người ta sinh ra phải luôn luôn được tự do và b́nh đẳng về quyền lợi.
    Hồ Chủ Tịch đă trích dẫn 2 câu nổi tiếng trong 2 bản Tuyên ngôn của Mĩ và Pháp, trước hết là để khẳng định Nhân quyền và Dân quyền là tư tưởng lớn, cao đẹp của thời đại, sau nữa là “suy rộng ra…” nhằm nêu cao một lư tưởng về quyền b́nh đẳng, quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do của các dân tộc trên thế giới.
    Cách mở bài rất đặc sắc, từ công nhận Nhân quyền và Dân quyền là tư tưởng thời đại đi đến khẳng định Độc lập, Tự do, Hạnh phúc là khát vọng của các dân tộc. Câu văn “Đó là những lẽ phải không ai chối căi được” là sự khẳng định một cách hùng hồn chân lí thời đại: Độc lập, Tự do, Hạnh phúc, B́nh đẳng của con người, của các dân tộc cần được tôn trọng và bảo vệ.
    Cách mở bài rất hay, hùng hồn trang nghiêm. Người không chỉ nói với nhân dân Việt Nam ta, mà c̣n tuyên bố với thế giới. Trong hoàn cảnh lịch sử thời bấy giờ, thế chiến 2 vừa kết thúc, Người trích dẫn như vậy là để tranh thủ sự đồng t́nh ủng hộ của dư luận tiến bộ thế giới, nhất là các nước trong phe Đồng minh, đồng thời ngăn chặn âm mưu tái chiếm Đông Dương làm thuộc địa của Đờ Gôn và bọn thực dân Pháp hiếu chiến, đầy tham vọng.
    2. a. Bản cáo trạng tội ác thực dân Pháp.
    – Vạch trần bộ mặt xảo quyệt của thực dân Pháp “lợi dụng lá cờ tự do, b́nh đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta”.
    – Năm tội ác về chính trị: 1- tước đoạt tự do dân chủ, 2- luật pháp dă man, chia để trị, 3- chém giết những chiến sĩ yêu nước của ta, 4- ràng buộc dư luận và thi hành chính sách ngu dân, 5- đầu độc bằng rượu cồn, thuốc phiện.
    – Năm tội ác lớn về kinh tế: 1- bóc lột tước đoạt, 2- độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng, 3- sưu thuế nặng nề, vô lư đă bần cùng nhân dân ta, 4- đè nén khống chế các nhà tư sản ta, bóc lột tàn nhẫn công nhân ta, 5- gây ra thảm họa làm cho hơn 2 triệu đồng bào ta bị chết đói năm 1945.
    – Trong ṿng 5 năm (1940 – 1945) thực dân Pháp đă hèn hạ và nhục nhă “bán nước ta 2 lần cho Nhật”.
    – Thẳng tay khủng bố Việt Minh; “thậm chí đến khi thua chạy, chúng c̣n nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”.
    b. Quá tŕnh đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta
    – Từ mùa thu năm 1940, nước ta đă thành thuộc địa của Nhật chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Nhân dân ta đă nổi dậy giành chính quyền khi Nhật hàng Đồng minh.
    – Nhân dân ta đă đánh đổ các xiềng xích thực dân và chế độ quân chủ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hoà. Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị.
    – Chế độ thực dân Pháp trên đất nước ta vĩnh viễn chấm dứt và xoá bỏ.
    – Trên nguyên tắc dân tộc b́nh đẳng mà tin rằng các nước Đồng minh “quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”:
    “Một dân tộc đă gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đă gan góc về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do. Dân tộc đó phải được độc lập.
    Phần thứ hai là những bằng chứng lịch sử không ai chối căi được, đó là cơ sở thực tế và lịch sử của bản Tuyên ngôn độc lập được Hồ Chí Minh lập luận một cách chặt chẽ với những lí lẽ đanh thép, hùng hồn.
    3. Lời tuyên bố với thế giới
    – Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và sự thật đă thành một nước tự do, độc lập (từ khát vọng đến sự thật lịch sử hiển nhiên)
    – Nhân dân đă quyết tâm giữ vững quyền tự do, độc lập ấy (được làm nên bằng xương máu và ḷng yêu nước).

    Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử vô giá của dân tộc ta, thể hiện phong cách chính luận của Hồ Chí Minh

    1. Cùng với bài thơ “Sông núi nước Nam” của Lư Thường Kiệt, “B́nh Ngô đại cáo” của Nguyễn Trăi, bản “Tuyên ngôn độc lập”, phản ánh đúng diện mạo tinh thần và truyền thống chống xâm lăng của dân tộc Việt Nam trong trường kỳ lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước.
    2. Một lối viết ngắn gọn (950 từ). Có câu văn 9 từ mà nêu đủ nêu đúng một cục diện chính trị: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”. Những bằng chứng lịch sử về 10 tội ác của thực dân Pháp và quá tŕnh đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta là không ai chối căi được. Sử dụng điệp ngữ tạo nên những câu văn trùng điệp đầy ấn tượng: “Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương ṇi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”. Cách dùng từ sắc bén: “cướp không ruộng đất”, “giữ độc quyền in giấy bạc”, “quỳ gối đầu hàng… rước Nhật”, thoát ly hẳn… xoá bỏ hết… xoá bỏ tất cả…”. Hoặc “chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”, v.v…
    Nghệ thuật lập luận chặt chẽ, đanh thép, hùng hồn: “Một dân tộc đă gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay/ một dân tộc đă gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít mấy năm nay → dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!” Một luận điểm, một lư lẽ được tŕnh bày bằng 2 luận cứ, dẫn đến 2 kết luận khẳng định được diễn đạt trùng điệp, tăng cấp.
    Tóm lại, “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh góp phần làm giàu đẹp lịch sử và nền văn học dân tộc, tô thắm tinh thần yêu nước, khát vọng độc lập, tự do của nhân dân ta.

    Tác giả và tác phẩm