Tam quốc diễn nghĩa

<Trở về trang chủ>

Nguồn gốc [Wikimedia]

Bạn hãy xem phim Tam quốc chí

Tam quốc diễn nghĩa về phương diện biên soạn chủ yếu là công lao của La Quán Trung, nhưng thực ra bộ tiểu thuyết này trước sau đã trải qua một quá trình tập thể sáng tác lâu dài của rất nhiều người.

  • Trước La Quán Trung, từ lâu chuyện Tam quốc đã lưu hành rộng rãi trong dân gian truyền miệng, các nghệ nhân kể chuyện, các nhà văn học nghệ thuật viết kịchdiễn kịch, đều không ngừng sáng tạo, làm cho những tình tiết câu chuyện và hình tượng các nhân vật phong phú thêm.
  • Cuối đời Nguyên đầu đời Minh, nhà tiểu thuyết La Quán Trung đã viết bộ Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa[3] chính là đã dựa trên cơ sở sáng tác tập thể rất hùng hậu đó của nhân dân quần chúng. Dĩ nhiên trong khi viết ông có tham khảo những bản ghi chép của các nhà viết sử và các nhà văn khác (Tam quốc chí của Trần ThọTam quốc chí chúcủa Bùi Tùng Chi), nhưng quan trọng hơn là phần thể nghiệm cuộc sống phong phú của bản thân ông và tài năng văn học kiệt xuất của ông.
  • Một trong những bản Tam quốc diễn nghĩa ra đời sớm nhất hiện nay còn giữ được là bản in năm Giáp Dần niên hiệu Hoằng Trị đời Minh (1494), năm Nhâm Ngọ Gia Tĩnh (1522) gồm có 24 cuốn 240 tiết. Từ đó về sau (gần 300 năm) nhiều bản Tam quốc đã lưu hành, nhưng nội dung đều không có gì khác nhau lắm.

Truyện Tam quốc của La Quán Trung so với bản truyện kể của đời nhà Nguyên, đại khái có mấy đặc điểm như sau:

  1. Tước bớt một số phần mê tín, nhân quả báo ứng và những tình tiết “quá ư hoang đường”.
  2. Viết thêm, làm nội dung cuốn truyện phong phú thêm rất nhiều, tô vẽ tính cách và hình tượng nhân vật cho sâu sắc, đậm nét hơn.
  3. Nâng cao ngôn ngữ đến mức nghệ thuật, tăng cường thêm sức hấp dẫn của nghệ thuật.
  4. Làm nổi bật lên một cách rõ ràng và mãnh liệt nhân dân tính và xu hướng tính văn học là yêu Lưu Bị, ghét Tào Tháo, hướng về nước Thục chống lại nước Ngụy trong toàn cuốn sách.

Nói tóm lại La Quán Trung đã đem những phần phong phú trong truyện Tam quốc mà nhân dân quần chúng và những nghệ nhân kể chuyện đã sáng tác ra, nâng cao lên thành một tác phẩm văn học lớn lao nổi tiếng.

  • Đầu đời Thanh, hai cha con Mao LuânMao Tôn Cương (người Tràng Châu tỉnh Giang Tô) lại bắt đầu tu đính truyện Tam quốc. Công việc tu đính này hoàn thành vào khoảng năm Khang Hy thứ 18 (1679).
  • Mao Tôn Cương đã gia công, thêm bớt, nhuận sắc những chi tiết nhỏ, sắp xếp lại các hồi mục, câu đối, sửa chữa lại câu, lời trùng hoặc những chỗ chưa thỏa đáng. Ông đã tước bỏ rất nhiều những chương tấu, những bài bình luận, tán rộng trong phần chú thích, thay đổi một số câu thơ lẫn lộn văn kể với văn vần, v.v… và thêm vào đó những lời bàn, dồn 240 tiết thành 120 hồi, lại đặt cho bộ Tam quốc cái tên là “cuốn sách đệ nhất tài tử”. Làm cho truyện càng hoàn chỉnh, văn kể trong sáng, gọt giũa, trên một mức độ nào đó cũng đã làm tiện lợi cho mọi quần chúng độc giả. Từ đó bản của Mao Tôn Cương thay bản của La Quán Trung, tiếp tục được lưu truyền rộng rãi.
  • Năm 1958, Nhân dân Văn học Xuất bản xã Bắc Kinh đã chỉnh lý lại nhiều, bằng cách dựa vào bản của Mao Tôn Cương hiệu đính rất kỹ từng câu, từng chữ, từng tên riêng có đối chiếu với bản của La Quán Trung rồi sửa chữa lại những chỗ mà bản của Mao Tôn Cương đã sửa hỏng, sửa sai với nguyên bản của La Quán Trung, nhưng nói chung vẫn giữ nguyên bộ mặt của bản Mao Tôn Cương. Còn những tên lịch sử đặc biệt như tên người, tên đất, tên chế độ… nếu cả hai bản trên đều sai, thì hiệu đính lại theo sử sách. Nên các lần in sau hầu hết đều lấy theo bản in này.

Có bài từ rằng

Trường Giang cuồn cuộn chảy về đông
Sóng vùi dập hết anh hùng
Được, thua, phải, trái, thoắt thành không
Non xanh nguyên vẻ cũ
Mấy độ bóng tà hồng!
Bạn đầu bạc ngư tiều trên bãi
Đã quen nhìn thu nguyệt xuân phong
Một bầu rượu vui vẻ tương phùng.
Xưa nay bao nhiêu việc
Phó mặc nói cười suông

  • Hồi 1: Tiệc vườn đào, anh hùng kết nghĩa; Chém Khăn Vàng, hào kiệt lập công
  • Hồi 2: Trương Dực Đức giận đánh đốc bưu; Hà Quốc Cữu mưu giết quan hoạn
  • Hồi 3: Tiệc Ôn Minh, Đổng Trác mắng Đinh Nguyên; Dùng vàng bạc, Lý Túc dụ Lã Bố
  • Hồi 4: Phế Hán Đế, Trần Lưu lên ngôi; Lừa Đổng tặc, Mạnh Đức dâng kiếm
  • Hồi 5: Phát hiệu triệu, các trấn hưởng ứng Tào Công; Phá cửa quan, ba anh hùng đánh Lã Bố
  • Hồi 6: Đốt Kim Quyết, Đổng Trác làm càn; Giấu ngọc tỷ, Tôn Kiên trái ước
  • Hồi 7: Viên Thiệu qua cầu đánh Công Tôn; Tôn Kiên sang sông đá Lưu Biểu.
  • Hồi 8: Vương tư đồ khéo dụng liên hoàn kế; Đổng thừa tướng náo động Phượng Nghi Đình
  • Hồi 9: Trừ hung bạo, Lã Bố giúp Tư đồ; Chiếm Trường An, Lý Thôi nghe Giả Hủ
  • Hồi 10: Giúp nhà vua, Mã Đằng khởi nghĩa; Báo thù bố, Tào Tháo cất quân
  • Hồi 11: Lưu Hoàng Thúc cứu Khổng Dung ở Bắc Hải; Lã Ôn Hầu phá Tào Tháo thành Bộc Dương
  • Hồi 12: Đào Cung Tổ ba lần nhượng Từ Châu; Tào Mạnh Đức một phen đánh Lã Bố
  • Hồi 13: Lý Thôi, Quách Dĩ một trận giao tranh; Dương Phụng, Đổng Thừa hai lần cứu giá
  • Hồi 14: Tào Mạnh Đức rời giá đến Hứa Đô; Lã Phụng Tiên đang đêm cướp Từ Quận
  • Hồi 15: Thái Sử Từ ham đả Tiểu Bá Vương; Tôn Bá Phù hăng đánh Nghiêm Bạch Hổ
  • Hồi 16: Cửa nha môn, Phụng Tiên bắn kích; Sông Vị Thủy, Mạnh Đức thua quân.
  • Hồi 17: Viên Công Lộ cất bảy cánh quân; Tào Mạnh Đức gặp ba ông tướng
  • Hồi 18: Giả Văn Hòa liệu kế đánh thắng giặc; Hạ Hầu Đôn rút tên nuốt con ngươi
  • Hồi 19: Thành Hạ Phì, Tào Tháo dùng binh; Lầu Bạch Môn, Lã Bố tuyệt mệnh
  • Hồi 20: Tào A Man ra săn ruộng Hứa Điền; Đổng quốc cữu vâng chiếu trong nội các
  • Hồi 21: Tào Tháo uống rượu luận anh hùng; Quan Công lừa mưu giết Xa Trụ
  • Hồi 22: Viên, Tào đều cất ba quân mã bộ; Quan, Trương cùng bắt hai tướng Vương, Lưu
  • Hồi 23: Nễ Chính Bình khỏa thân mắng giặc; Cát Thái Y đầu độc bị hình.
  • Hồi 24: Quốc tặc hành hung giết quý phi; Hoàng Thúc thua chạy sang Viên Thiệu
  • Hồi 25: Đóng Thổ Sơn, Quan Công giao ước ba việc; Cứu Bạch Mã, Tào Tháo thoát khỏi vòng vây
  • Hồi 26: Viên Bản Sơ hao binh tổn tướng; Quan Vân Trường treo ấn gói vàng
  • Hồi 27: Mỹ Nhiệm Công cưỡi một ngựa bay nghìn dặm; Hán Thọ Hầu chém sáu tướng phá năm quan
  • Hồi 28: Chém Sái Dương, anh em hòa giải; Hội Cổ Thành, vua tôi tụ nghĩa
  • Hồi 29: Tiểu Bá Vương giận chém Vu Cát; Ngô Tôn Quyền ngồi lĩnh Giang Đông
  • Hồi 30: Đánh Quan Độ, Bản Sơ bại trận; Cướp Ô Sào, Mạnh Đức đốt lương.
  • Hồi 31: Tào Tháo ở Thương Đình, phá vỡ Bản Sơ; Huyền Đức sang Kinh Châu, nương nhờ Lưu Biểu
  • Hồi 32: Cướp Ký Châu, Viên Thượng tranh hùng; Khơi sông Chương, Hứa Du hiến kế
  • Hồi 33: Tào Phi nhân loạn lấy Chân Thị; Quách Gia dặn kế định Liêu Đông.
  • Hồi 34: Sái phu nhân nấp nghe chuyện kín; Lưu Hoàng Thúc nhảy ngựa Đàn Khê.
  • Hồi 35: Huyền Đức qua Nama Chương, gặp người ẩn dật; Đan Phúc đến Tân Dã, tiếp chúa anh minh.
  • Hồi 36: Huyền Đức dùng mẹo đánh úp Phàn Thành; Nguyên Trực tế ngựa tiến cử Gia Cát.
  • Hồi 37: Tư Mã Huy hai lần tiến cử danh sĩ, Lưu Huyền Đức ba lượt đến tận lều tranh.
  • Hồi 38: Long Trung quyết kế thiên hạ chia ba; Tôn thị báo thù, Trường Giang đại chiến
  • Hồi 39: Thành Kinh Châu, công tử ba lần cầu kế; Gò Bác Vọng, quân sư bắt đầu dùng binh
  • Hồi 40: Sái Phu Nhân Bàn Hiến Ký Châu; Gia Cát Lượng Hỏa Thiêu Tân Dã
  • Hồi 41: Lưu Huyền Đức đưa dân qua sông; Triệu Tử Long một ngựa cứu chúa.
  • Hồi 42: Trương Dực Đức Đại Náo Cầu Trường Bản; Lưu Dự Châu Thua Chạy Cửa Hán Tân
  • Hồi 43: Gia Cát Lượng khua lưỡi bẻ bọn nho; Lỗ Tử Kính dùng sức bác lời chúng.
  • Hồi 44: Khổng Minh dùng kế khích Chu Du; Tôn Quyền quyết mưu đánh Tào Tháo.
  • Hồi 45: Cửa Tam Giang, Tào Tháo hao binh; Hội quần anh, Tưởng Cán mắc mẹo.
  • Hồi 46: Dùng Chước lạ, Khổng Minh mượn tên; Dâng kế mật, Hoàng Cái chịu nhục.
  • Hồi 47: Hám Trạch mật dâng thư giả hàng; Bàng Thống khéo dùng liên hoàn kế.
  • Hồi 48: Mở tiệc yến, Tào Tháo ngâm thơ; Khóa chiến thuyền, bắc quân dùng võ.
  • Hồi 49: Đàn thất tinh, Gia Cát cầu phong; Cửa Tam Giang, Chu Du phóng hỏa.
  • Hồi 50: Gia Cát Lượng khéo tình đường Hoa Dung; Quan Vân Trường vì nghĩa tha Tào Tháo.
  • Hồi 51: Tào Nhân đại chiến quân Đông Ngô; Khổng Minh chọc tức Chu Công Cẩn.
  • Hồi 52: Gia Cát Lượng chối từ Lỗ Túc; Triệu Tử Long lừa mẹo lấy Quế Dương.
  • Hồi 53: Quan Vân Trường tha Hoàng Trung không giết; Tôn Trọng Mưu đánh Trương Liêu bị thua.
  • Hồi 54: Ngô Quốc Thái đến chùa xem rể hiền; Lưu Hoàng Thúc động phòng cưới vợ mới.
  • Hồi 55: Huyền Đức khéo léo, nói khích Tôn phu nhân; Khổng Minh hai phen trêu tức Chu Công Cẩn.
  • Hồi 56: Tào Tháo mở tiệc mừng đài Đổng Tước; Khổng Minh Ba lần trêu tức Chu Du.
  • Hồi 57: Cửa Sài Tang, Ngọa Long đến viếng tang; Huyện Lỗi Dương, Phượng Sồ quản công việc.
  • Hồi 58: Mã Mạnh Khởi cất quân báo thù; Tào A Man cắt râu, vứt áo.
  • Hồi 59: Hứa Chử cởi trần đánh Mã Siêu; Tào Tháo xóa thư lừa Hàn Toại.
  • Hồi 60: Trương Vĩnh Niên hỏi vặn Dương Thu; Bàng Sĩ Nguyên bàn lấy Tây Thục.
  • Hồi 61: Triệu Vân chặn sông giằng A Đẩu; Tôn Quyền đưa thư đánh lui Tào Man.
  • Hồi 62: Giữ Bổi Quan, Dương, Cao nộp mạng; Đánh Lạc Thành, Hoàng, Ngụy tranh công
  • Hồi 63: Gia Cát Lượng đau lòng khóc Bàng Thống; Trương Dực Đức vì nghĩa tha Nghiêm Nhan
  • Hồi 64: Khổng Minh dùng mẹo bắt Trương Nhiệm; Dương Phụ mượn quân phá Mã Siêu
  • Hồi 65: Mã Siêu đại chiến cửa Hà Manh; Huyền Đức nhận chức được đất Tây Thục
  • Hồi 66: Quan Vân Trường một đao tới hội; Phục Hoàng hậu vì nước bỏ mình
  • Hồi 67: Bình Hán Trung, Tào Tháo thành công; Bến Tiêu Diêu, Trương Liêu khét tiếng
  • Hồi 68: Cam Ninh trăm kỵ cướp Ngụy doanh; Tả Từ quăng chén đùa Tào Tháo
  • Hồi 69: Bói Chu Dịch, Quản lộ biết cơ; Đánh Tào Man, năm người tử tiết
  • Hồi 70: TrươngPhi khỏe, dùng mưu lấy Ngõa Khẩu Ải; Hoàng Trung già, bày kế đoạt Thiên Đăng Sơn
  • Hồi 71: Chiếm Đối Sơn, Hoàng Trung sức nhàn thắng sức mỏi; Giữ Hán Thủy, Triệu Vân quân ít phá quân nhiều
  • Hồi 72: Gia Cát Lượng dùng mẹo lấy Hán Trung; Tào A Man thu quân về Tà Cốc
  • Hồi 73: Huyền Đức lên ngôi Hán Trung Vương; Vân Trường đánh chiếm Tương Dương quận
  • Hồi 74: Bàng Đức mang áo quan, quyết trận tử chiến; Quan Công khơi dòng nước, tràn ngập bảy đạo quân
  • Hồi 75: Quan Vân Trường cạo xương chữa thuốc; Lã Tử Minh áo trắng sang đò
  • Hồi 76: Từ Công Minh đánh đến Miện Thủy; Quan Vân Trường thua chạy ra Mạch Thành
  • Hồi 77: Núi Ngọc Toàn, Quan Công hiển thánh; Thành Lạc Dương, Tào Tháo cảm thần
  • Hồi 78: Chữa bệnh nhức đầu, hại thân thầy thuốc; Trối trăn truyền lại, hết số gian hùng
  • Hồi 79: Anh chẹt em, Tào Thực ngâm thơ; Cháu hại chú, Lưu Phong chịu tội
  • Hồi 80: Tào phi bỏ Hiến Đế, cướp vận Viêm Lưu; Hán Vương lên ngôi rồng, nối dòng đại thống
  • Hồi 81: Vội báo thù, Trương Phi bị hại; Mong rửa hận, tiên chủ cất quân
  • Hồi 82: Tôn Quyền hàng Ngụy, chịu cửu tích; Tiên chủ đánh Ngô, thưởng sáu quân
  • Hồi 83: Đánh Hào Đình, tiên chủ bắt được thù nhân; Giữ Giang Khẩu, thư sinh cất làm đại tướng
  • Hồi 84: Lục Tốn đốt sạch trại liên doanh; Khổng Minh khéo bày đồ bát trận
  • Hồi 85: Lưu tiên chủ viết chiếu gửi con côi; Gia Cát Lượng ngồi yên bình năm đạo
  • Hồi 86: Tần Bật biện bác, hỏi vặn Trương Ôn; Từ Thịnh hóa công, phá quân Ngụy chủ
  • Hồi 87: Đánh nam khấu, thừa tướng cất quân; Chống thiên binh, Man vương bị bắt
  • Hồi 88: Qua Lư Thủy, Phiên vương hai lượt vào tròng; Biết trá hàng, Mạnh Hoạch ba phen bị bắt
  • Hồi 89: Võ Vương hầu bốn phen dùng mẹo; Nam Man vương năm lượt vào tròng
  • Hồi 90: Đuổi thú mạnh, sáu chuyến phá quân Man; Đốt giáp mây, bảy lần bắt Mạnh Hoạch
  • Hồi 91: Tế sông Lư, thừa tướng rút quân; Đánh giặc Ngụy, Võ Hầu dâng biểu
  • Hồi 92: Triệu Tử Long ra sức giết năm tướng; Gia Cát Lượng dùng mẹo đoạt ba thành
  • Hồi 93: Khương Bá Ước về hàng Khổng Minh; Võ Vương Hầu mắng chết Vương Lãng
  • Hồi 94: Gia Cát Lượng nhân tuyết phá quân Khương; Tư Mã Ý nhanh tay bắt Mạnh Đạt
  • Hồi 95: Mã Tốc trái lệnh mất Nhai Đình; Võ Hầu gẩy đàn đuổi Trọng Đạt
  • Hồi 96: Khổng Minh gạt lệ chém Mã Tốc; Chu Phường cắt tóc lừa Tào Hưu
  • Hồi 97: Đánh nước Ngụy, Võ Hầu hai lần dâng biểu; Phá quân Tào, Khương Duy dùng mẹo hiến thư.
  • Hồi 98: Đuổi quân Hán, Vương Song mắc mưu; Úp Trần Thương, Võ Hầu thắng trận.
  • Hồi 99: Gia Cát Lượng cả phá quân Ngụy; Tư Mã Ý vào cướp Tây Xuyên
  • Hồi 100: Quân Hán cướp trại, phá Tào Quân; Võ Hầu đấu trận, nhục Trọng Đạt.
  • Hồi 101: Ra Lũng Thượng, Gia Cát giả làm thần; Vào Kiếm Các, Trương Cáp bị mắc mẹo
  • Hồi 102: Tư Mã Ý chiếm giữ Bắc Nguyên, Vị Kiều; Gia Cát Lượng chế ra trâu gỗ, ngựa máy
  • Hồi 103: Hang Thượng Phương, Tư Mã mắc nạn; Gò Ngũ thượng, Gia Cát dâng sao
  • Hồi 104: Rơi sao lớn, thừa tướng qua đời; Trông tượng gỗ, đô đốc mất vía
  • Hồi 105: Võ Hầu dự sẵn mẹo cẩm nang; Ngụy chủ dỡ lấy mâm thừ lộ
  • Hồi 106: Công Tôn Uyên thua trận, chết ở Tương Bình; Tư Mã Ý giả ốm, lừa được Tào Sảng
  • Hồi 107: Ngụy chủ trao quyền họ Tư Mã; Khương Duy bại trận núi Ngưu Đầu
  • Hồi 108: Trong mưa tuyết, Đinh Phụng đánh đoản binh; Trên tiệc rượu, Tôn Tuấn dùng mật kế
  • Hồi 109: Vây Tư Mã, mưu lạ Khương Duy; Bỏ Tào Phương, quả báo nhà Ngụy
  • Hồi 110: Văn Ương một ngự thoái quân hùng; Bá Ước men sông phá giặc lớn
  • Hồi 111: Đặng Sĩ Tái mẹo phá Khương Bá Ước; Gia Cát Đản khởi nghĩa đánh Tư Mã Chiêu
  • Hồi 112: Cứu Thọ Xuân, Vu Thuyên tử tiết; Lấy Trường Thành, Bá Ước dùng binh
  • Hồi 113: Đinh Phụng Lập mẹo đánh Tôn Lâm; Khương Duy đấu trận phá Đặng Ngải
  • Hồi 114: Tào Mao ruổi xe chết cửa nam; Khương Duy bỏ lương phá quân Ngụy
  • Hồi 115: Xuống chiếu thu quân, Hậu chủ tin gièm; Mượn nghề làm ruộng, Khương Duy lánh vạ
  • Hồi 116: Đường Hán Trung, Chung Hội chia quân; Núi Định Quân, Võ Hầu hiển thánh
  • Hồi 117: Đặng Sĩ Tái lẻn qua núi Âm Bình; Gia Cát Chiêm chết tại thành Miên Trúc
  • Hồi 118: Khóc miếu tổ, Lưu Thầm tự tử; Vào Tây Xuyên, Chung, Đặng tranh công
  • Hồi 119: Giả đầu hàng, kế hay thành chuyện hão; Nhường ngôi báu, người sau học lối xưa
  • Hồi 120: Tiến Đỗ Dự, lão tướng dâng mẹo hay; Bắt Tôn Hạo, tam phân lại hợp nhất

CÁC ĐỀ ÔN TẬP CÓ HƯỚNG DẪN

<Trở về trang Ngữ văn>

Phần 1

Nội dung bài giảng hôm nay về Văn học lãng mạn và hiện thực phê phán 1930-1945:
Mời bạn BẤM VÀO ĐÂY để theo dõi nội dung hướng dẫn thực hiện 14 đề:
– Đề 1: Đây mùa thu tới (Xuân Diệu)
– Đề 2: Tràng giang (Huy Cận)
– Đề 3: Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử)
– Đề 4: Tống biệt hành (Thâm Tâm)
– Đề 5: Phân tích bức tranh phố huyện nghèo trong truyện ngắn Hai đứa trẻ (Thạch Lam)
– Đề 6: Phân tích tâm trạng chị em Liên đêm đêm cố thức để được nhìn chuyến tàu đi qua phố huyện (Hai đứa trẻ – Thạch Lam)
– Đề 7: Phân tích tấn bi kịch của người trí thức nghèo trong xã hội cũ qua nhân vật Hộ trong truyện ngắn Đời thừa của Nam Cao.
– Đề 8: Phân tích nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao để làm nổi bật bi kịch cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo
– Đề 9: Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo.
– Đề 10: Chí Phèo tỉnh – Chí Phèo không say
– Đề 11: Phân tích nghệ thuật trào phúng trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia (Số đỏ – Vũ Trọng Phụng)
– Đề 12: Phân tích nhân vật Xuân Tóc Đỏ trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng.
– Đề 13: Những giá trị tư tưởng và nghệ thuật của thơ lãng mạn qua một số tác phẩm của Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử thời kỳ 1930-1945.
– Đề 14: Giá trị tư tưởng và nghệ thuật của đoạn văn tả cảnh ông Huấn Cao “cho chữ” trong nhà giam (truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân). Vì sao tác giả cho đó là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”?

Phần 2

Nội dung bài giảng được trình bày theo trình tự sau:

Tố Hữu – cuộc đời và sự nghiệp sáng tác Bấm vào đây để xem

I. Ở Tố Hữu có sự thống nhất chặt chẽ giữa nhà cách mạng, nhà chính trị và nhà thơ.
II. Những nét phong cách cơ bản của thơ Tố Hữu:
III. Những nét phong cách của thơ Tố Hữu nó đều chứa đựng hai mặt: mạnh và yếu.

Lời bình về thơ Tố Hữu

Vấn đề 1: Tâm tư trong tù Bấm vào đây để xem
– Kiến thức cơ bản
– Câu hỏi và bài tập – gợi ý trả lời
– Làm văn – bài tham khảo
– Tài liệu tham khảo…

Vấn đề 2: Việt Bắc. Bấm vào đây để xem.
Vấn đề 3: Kính gửi cụ Nguyễn Du Bấm vào đây để xem.

Phần 3

Nội dung bài giảng được trình bày theo trình tự sau:
1. Vấn đề 1: Tây Tiến . Bấm vào đây để xem.
– Tư liệu về tác giả và tác phẩm
– Các câu hỏi liên quan đến tác phẩm
– Các đề làm văn liên quan và các bài làm gợi ý
2. Vấn đề 2: Bên kia sông Đuống Bấm vào đây để xem.
– Tư liệu về tác giả và tác phẩm
– Các câu hỏi liên quan đến tác phẩm
– Các đề làm văn liên quan và các bài làm gợi ý
3. Vấn đề 3: Đất nước. Bấm vào đây để xem.
– Tư liệu về tác giả và tác phẩm
– Các câu hỏi liên quan đến tác phẩm
– Các đề làm văn liên quan và các bài làm gợi ý

Phần 4

Nội dung bài giảng được trình bày theo trình tự sau:
1. Vấn đề 1: Đôi mắt – Nam Cao. Bấm vào đây để xem.
– Các câu hỏi liên quan đến tác phẩm.
– Các đề làm văn liên quan và các bài làm gợi ý.
+ Đề 1: “… Đôi mắt của Nam Cao được coi như là bản Tuyên ngôn Nghệ Thuật của thế hệ chúng tôi, hồi ấy…” (Tô Hoài). Phân tích tác phẩm để làm sáng tỏ nhận định trên.
+ Đề 2: Phân tích văn sĩ Hoàng trong “Đôi mắt” của Nam Cao để làm sáng tỏ chủ đề tác phẩm.
– Tư liệu và lời bình
2. Vấn đề 2: Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài. Bấm vào đây để xem.
– Câu hỏi về tác phẩm
– Các đề làm văn và gợi ý làm:
+ Đề 1: Phân tích Mị (trọng tâm đoạn trích SGK V.12) để thấy được “Tô hoài đã xây dựng nhân vật theo quá trình phát triển cách mạng”
+ Đề 2: Phân tích giá trị nhân đạo của Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) qua cuộc đời của Mị và A Phủ
– Các đề bài luyện tập
– Lời bình và tư liệu
3. Vấn đề 3: Vợ nhặt – Kim Lân. Bấm vào đây để xem
– Câu hỏi về tác phẩm
– Các đề làm văn và gợi ý làm:
+ Đề 1: Phân tích giá trị nhân đạo sâu sắc trong “Vợ nhặt” của Kim Lân.
+ Đề 2: Phân tích tâm trạng của bà cụ Tứ trong “Vợ nhặt” của Kim Lân.
– Các đề bài luyện tập

Phần 5

Nội dung bài giảng được trình bày theo trình tự sau:
1. Vấn đề 1: Các vị La Hán chùa Tây Phương – Huy Cận . Bấm vào đây để xem.
– Kiến thức cơ bản về tác phẩm
– Luyện tập và bài làm gợi ý
+ Đề 1: Phân tích nghệ thuật miêu tả pho tượng trong bài “Các vị La Hán chùa Tây Phương” của Huy Cận.
+ Đề 2: Bình giảng một trong các đoạn thơ sau đây (học sinh tự làm)
a. “Đây vị xương trần … đến nay”
b. “Mặt cúi (…) mặt vẫn chau”
2. Vấn đề 2: Tiếng Hát Con Tàu – Chế Lan Viên. Bấm vào đây để xem.
– Kiến thức cơ bản về tác phẩm
– Luyện tập và các bài làm văn gợi ý:
+ Đề 1: Bình giảng đoạn thơ:
“Nhớ bản sương giăng (…) quê hương”
+ Đề 2: Bình giảng khổ thơ đề từ để từ đó phân tích bài thơ “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên.
3. Vấn đề 3: Sóng – Xuân Quỳnh. Bấm vào đây để xem.
– Kiến thức cơ bản về tác phẩm
– Luyện tập và các bài làm văn gợi ý:
+ Đề 1: Qua bài thơ Sóng, vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu được thể hiện như thế nào? (2đ)
+ Đề 2: Bình giảng bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh (5đ)
4. Vấn đề 4: Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm. Bấm vào đây để xem.
– Kiến thức cơ bản về tác phẩm
– Luyện tập và các bài làm văn gợi ý:
+ Đề 1: Phân tích đoạn trích “Đất nước” (Trích trường ca Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm).
+ Đề 2: Bình giảng: (Học sinh tự soạn)
a) “Và ở đâu … núi sông ta”
b) “Trong anh và em … muôn đời”

Phần 6

Nội dung bài giảng được trình bày theo trình tự sau:
1. Vấn đề 1: Nguyễn Tuân và người lái đò sông Đà. Bấm vào đây để xem.
– Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác.
– Phân tích tác phẩm người lái đò sông Đà:
+ Kiến thức cơ bản.
+ Đề luyện tập 1: Phân tích hình ảnh thiên nhiên và con người qua “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân để qua đó thấy được phong cách nghệ thuật của tác giả.
+ Đề luyện tập 2: Bình giảng đoạn văn sau đây trích trong bút kí Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân:
2. Vấn đề 2: Mùa Lạc – Nguyễn Khải. Bấm vào đây để xem.
– Kiến thức cơ bản về tác phẩm
– Luyện tập và các bài làm văn gợi ý:
Đề 1: Phân tích nhân vật Đào trong “Mùa lạc” của Nguyễn Khải.
3. Vấn đề 3: Rừng Xà Nu – Nguyễn Trung Thành. Bấm vào đây để xem.
– Kiến thức cơ bản về tác phẩm
– Luyện tập và các bài làm văn gợi ý:
+ Đề 1: Phân tích nhân vật Tnú trong “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành.
+ Đề 2: Phân tích hình tượng cây xà nu trong truyện “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành.
4. Vấn đề 4: Mảnh trăng cuối rừng – Nguyễn Minh Châu. Bấm vào đây để xem.
– Kiến thức cơ bản về tác phẩm
– Luyện tập và các bài làm văn gợi ý:
+ Đề 1: Phân tích vẻ đẹp lãng mạn – trữ tình trong “Mảnh trăng cuối rừng” của Nguyễn Minh Châu.
+ Đề 2: Nguyễn Minh Châu khi nói về cảm hứng sáng tác của mình, đã cho rằng: “Mỗi con người đều chứa trong lòng những nét đẹp đẽ, kỳ diệu đến nỗi cả một đời người cũng chưa đủ nhận thức, khám phá tất cả những cái đó”. Anh, chị hãy tìm hiểu những nét đẹp đẽ, kỳ diệu đó của nhân vật Nguyệt khi phân tích Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu.

Phần 7

Nội dung bài giảng được trình bày theo trình tự sau:
1. Đề 1: Phân tích truyện ngắn “Vi hành” để thấy một sáng tạo nghệ thuật độc đáo, một bút pháp mỉa mai, châm biếm bậc thầy của Nguyễn Ái Quốc. Bấm vào đây để xem.

2. Đề 2: Hãy chứng minh rằng truyện ngắn “Vi hành” là một tác phẩm văn chương thật sự mà Nguyễn Ái Quốc đã viết từ những năm 20 của thế kỉ này trên đất Pháp. Bấm vào đây để xem.

3. Đề 3: Trong truyện ngắn Vi hành, nhân vật chính không có mặt nhưng lại hiện lên sinh động và đầy ấn tượng, đạt hiệu quả nghệ thuật cao, mang sức tố cáo mạnh mẽ. Đó là nhờ sự sáng tạo độc đáo của Nguyễn Ái Quốc. Hãy phân tích và chứng minh. Bấm vào đây để xem.

4. Đề 4: Người ta thấy ở văn xuôi Nguyễn Ái Quốc “một nghệ thuật trần thuật linh hoạt độc đáo và một ngòi bút châm biếm vừa sâu sắc, đầy tính chiến đấu, vừa tươi tắn, hóm hỉnh”(Văn 12, 1992 – tr.8). Hãy chứng tỏ điều đó qua truyện ngắn Vi hành. Bấm vào đây để xem.

Phần 8

Nội dung bài giảng được trình bày theo trình tự sau:
1. Đề 1 Bấm vào đây để xem.
Có người nói: “Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn là một bài văn chính luận ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, đanh thép, lời lẽ hùng hồn đầy sức thuyết phục”.
2. Đề 2 Bấm vào đây để xem.
Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã đánh giá Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh như sau: “Tài nghệ ở đây là dàn dựng được một lập luận chặt chẽ, đưa ra được những luận điểm, những bằng chứng không ai chối cãi được và đằng sau những lí lẽ ấy là một tầm tư tưởng, tầm văn hóa lớn, đã tổng kết được trong một văn bản ngắn gọn, trong sáng, khúc chiết kinh nghiệm của nhiều thế kỷ đấu tranh vì độc lập, tự do, vì nhân quyền của dân tộc và của nhân loại”. (Giảng văn Văn học Việt Nam, Tái bản lần thứ nhất – Nhà xuất bản giáo dục, 1997, trang 490). Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập để làm sáng tỏ ý trên.
3. Đề 3 Bấm vào đây để xem.
Đoạn mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh được viết rất cao tay: vừa khéo léo vừa kiên quyết lại hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc. Hãy phân tích để làm sáng tỏ điều đó.
4. Đề 4 Bấm vào đây để xem.
Phân tích phần tuyên ngôn trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh (từ “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị” cho đến hết), nêu rõ:
1. Ý nghĩa sâu sắc của “phần tuyên ngôn”.
2. Lập luận chặt chẽ, giọng văn hùng biện đầy sức thuyết phục.

Phần 9

Nội dung bài giảng được trình bày theo trình tự sau:
1. Đề 1 Bấm vào đây để xem.
Phân tích “Ngắm trăng” của Hồ Chí Minh
2. Đề 2 Bấm vào đây để xem.
Phân tích bài thơ “Cảnh chiều hôm” của Hồ Chí Minh.
3. Đề 3 Bấm vào đây để xem.
Phân tích bài thơ “Mới ra tù, tập leo núi” của Hồ Chí Minh
4. Đề 4 Bấm vào đây để xem.
Phân tích bài “Mộ” (Ngục trung nhật ký của Hồ Chí Minh)
5. Đề 5 Bấm vào đây để xem.
Thơ Nhật ký trong tù đậm đà màu sắc cổ điển, mà vẫn thể hiện sáng ngời tinh thần thời đại. Hãy giải thích vì sao như vậy và phân tích bài thơ “Mới ra tù, tập leo núi” của Hồ Chí Minh để làm sáng tỏ hai vẻ đẹp đó.
6. Đề 6 Bấm vào đây để xem.
Đọc Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh, nhà thơ Hoàng Trung Thông viết:

Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp
Ánh đèn tỏa rạng mái đầu xanh
Vần thơ của Bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình

Em hiểu bốn câu thơ trên như thế nào? Chọn và phân tích những câu thơ tiêu biểu trong “Nhật ký trong tù” để làm sáng tỏ ý thơ trên.

Phần 10

Nội dung bài giảng được trình bày theo trình tự sau:
1. Đề 1 Bấm vào đây để xem.
Tình và Thép trong “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh, qua những bài thơ đã học và đọc thêm ở “Nhật ký trong tù”.
2. Đề 2 Bấm vào đây để xem.
Viết về “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh, nhà phê bình Hoài Thanh có nhận xét: “Tập Nhật ký trong tù là một tiếng nói chứa chan tình nhân đạo”. Hãy chứng minh ý kiến trên. thể dựa vào để phân tích đặc điểm của người chiến sĩ cộng sản.
3. Đề 3 Bấm vào đây để xem.

Lại thương nỗi đọa đày thân Bác
Mười bốn trăng tê tái gông cùm
Ôi! Chân yếu mắt mờ tóc bạc
Mà thơ bay … cánh hạc ung dung

(Tố Hữu)

Từ những bài đã học và đã đọc trong “Nhật ký trong tù” của Hồ Chủ Tịch, hãy chứng minh nhận định trên.
4. Đề 4 Bấm vào đây để xem.
Tình cảm nhân đạo trong “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh.
5. Đề 5 Bấm vào đây để xem.
Trong chuỗi ngày bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam cầm, Bác Hồ cảm thấy đau khổ vô hạn vì mất tự do. Vậy mà có lúc Bác lại tự nhận là “Khách tự do”, “Khách tiên”, có thể giải thích điều đó như thế nào?
6. Đề 6 Bấm vào đây để xem.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà thơ lớn, nhưng trong “Nhật ký trong tù”, Người lại viết:

Ngâm thơ ta vốn không ham
Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây;
Ngày dài ngâm ngợi cho khuây,
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do

Anh (chị) hãy giải thích về hiện tượng trên như thế nào?

Phần 11

Nội dung bài giảng được trình bày theo trình tự sau:
1. Phần 1 Bấm vào đây để xem.
Tư liệu văn học:
– Nhật kí trong tù – Hồ Chí Minh
– Tây Tiến – Quang Dũng
– Bên Kia Sông Đuống – Hoàng Cầm
– Đất nước – Nguyễn Đình Thi
– Việt Bắc – Tố Hữu
– Kính gửi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu
– Vợ Nhặt – Kim Lân
– Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài
– Rừng Xà Nu – Nguyễn Trung Thành
– Mùa Lạc – Nguyễn Khải
– Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm
– Sóng – Xuân Quỳnh
– 2. Đề 2 Bấm vào đây để xem.
Thơ – Bình Thơ
– Hàn Mặc Tử
– Nguyễn Bính
– Hữu Loan
– Vũ Cao
– T.T.KH và hai sắc hoa Ti gôn
– Kết cấu nghệ thuật của bài thơ “Lá Diêu Bông”
– Quang Dũng – Đôi mắt người Sơn Tây

Phần 12

Nội dung bài giảng được trình bày theo trình tự sau:
1. Đề 1 Bấm vào đây để xem.
“Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”. Giải thích và bình luận ý kiến trên của Thạch Lam (1910 – 1942)
2. Đề 2 Bấm vào đây để xem.
Trong truyện ngắn “Đời thừa”, Nam Cao viết : “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”.
Hãy bình luận ý kiến trên và phân tích một số tác phẩm của Nam Cao để làm sáng tỏ quan điểm nghệ thuật đó
3. Đề 3 Bấm vào đây để xem.
Trong truyện ngắn “Trăng sáng” (1943) nhà văn Nam Cao viết: “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp sống lầm than…”. Hãy giải thích và bình luận ý kiến trên.
4. Đề 4 Bấm vào đây để xem.
Vì sao có thể nói văn học chân chính có khả năng nhân đạo hóa con người? Liên hệ với thực tế văn học.
5. Đề 5 Bấm vào đây để xem.
Bình giảng “Các vị La Hán chùa Tây Phương” – Huy Cận
________________________________________

Người lái đò sông Đà – Nguyễn Tuân

<Trở về trang Ngữ văn>

Nguyễn Tuân

Tác giả

Nguyễn Tuân (1910 – 1987) xuất thân trong một gia đ́nh nhà nho ở Hà Nội. Tác phẩm tiêu biểu nhất: “Vang bóng một thời” (1933), “Sông Đà” (1960), Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi…

Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: tài hoa, độc đáo và uyên bác. Cái đẹp, cái thiên lương trong cuộc đời được ông nói đến với tâm hồn nghệ sĩ đích thực, với cái nh́n phát hiện và đầy sáng tạo. Văn của ông, chữ nghĩa của ông giàu có, tài hoa. Chuyện xưa và nay, chuyện trên rừng dưới biển, chuyện làm ăn, thú ăn chơi tao nhă… đến đặc sản, thổ ngơi, chuyện người, chuyện cây cỏ… từ rượu đến hoa, từ gị chả đến phở… được ông nói đến thật hay. Người đọc cảm thấy tâm hồn ḿnh giàu có thêm lên qua từng trang văn độc đáo của ông, để yêu hơn, tự hào hơn đất nước, con người và nền văn hoá Việt Nam.

Tác phẩm

  • Tải về các tác phẩm của Nguyễn Tuân

  • Hình ảnh tham quan sông Đà

    NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

  • Tiếng đàn ghi ta của Lorca – Thanh Thảo

    <Trở về trang Ngữ văn>

    Thanh Thảo

    Tác giả

    Thanh Thảo, Nhà thơ
    * Tên khai sinh: Hồ Thành Công, sinh năm 1946. Quê quán: xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Nơi ở hiện nay: Quảng Ngãi. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
    * Tốt nghiệp khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Thanh Thảo vào công tác ở chiến trường miền Nam trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Sau 1975, anh chuyên hoạt động văn học nghệ thuật, hiện là Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ Quảng Ngãi.

    * Tác phẩm đã xuất bản: Những người đi tới biển (trường ca, 1977); Dấu chân qua trảng cỏ (thơ, 1980); Khối vuông Rubic (thơ, 1985); Từ một đến một trăm (thơ, 1988); Những ngọn sóng mặt trời (trường ca, 1994).

    Thanh Thảo đã được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1979 (tập thơ Dấu chân qua trảng cỏ); Giải thưởng của Ban Văn học Quốc phòng An Ninh, Hội Nhà văn Việt Nam cho tập trường ca “Những ngọn sóng mặt trời” (1995).

    Tác phẩm

    ĐÀN GHI TA CỦA LORCA

    Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn ghita

    * F.G. Lorca

    những tiếng đàn bọt nước
    Tây-Ban-Nha áo choàng đỏ gắt
    li-la li-la li-la
    đi lang thang về miền đơn độc
    với vầng trăng chếnh choáng
    trên yên ngựa mỏi mòn
    Tây-Ban-Nha
    hát nghêu ngao
    bỗng kinh hoàng
    áo choàng bê bết đỏ
    Lorca bị điệu về bãi bắn
    chàng đi như người mộng du
    tiếng ghi-ta nâu
    bầu trời cô gái ấy
    tiếng ghi-ta lá xanh biết mấy
    tiếng ghi-ta tròn bọt nước vỡ tan
    tiếng ghi-ta ròng ròng
    máu chảy
    không ai chôn cất tiếng đàn
    tiếng đàn như cỏ mọc hoang
    giọt nước mắt vầng trăng
    long lanh trong đáy giếng
    đường chỉ tay đã đứt
    dòng sông rộng vô cùng
    Lorca bơi sang ngang
    trên chiếc ghi-ta màu bạc
    chàng ném lá bùa cô gái di-gan
    vào xoáy nước
    chàng ném trái tim mình
    vào lặng yên bất chợt
    li-la li-la li-la…

    (Khối vuông Rubic – NXB Tác phẩm mới – 1985)

    MỘT SỐ Ý KIẾN BÌNH GIẢNG

    Đất nước Tây Ban Nha xinh đẹp với những trận đấu bò rực lửa, với tiếng ghi ta say lòng đã đi vào trong thơ của Garcia Lorca, nhà thơ nhân dân, người chiến sĩ chống phát xít. Sự hy sinh anh dũng của ông trước họng súng của bọn phát xít Franco đã để lại nhiều tiếc thương cho nhân dân Tây Ban Nha. Sức ám ảnh của những bài thơ đầy chất lãng tử của người nghệ sĩ Tây Ban Nha ấy đã gặp gỡ với hồn thơ Thanh Thảo làm nên bài thơ độc đáo Đàn ghi ta của Lorca trong tập thơ Khối vuông rubic.

    Trước hết cần phải thấy không phải ngẫu nhiên mà Thanh Thảo lại chọn hình tượng đàn ghi ta gắn với giây phút cuối cùng của F.G.Lorca. Bởi lẽ người chiến sĩ này đã dùng tiếng ghi ta cất lên lời ca tranh đấu chống lại chủ nghĩa phát xít. Đàn ghi ta là tâm hồn Lorca, là khí phách kiên cường của những người chiến sĩ yêu tự do hòa nhịp trái tim mình với quần chúng nhân dân. Bởi vậy, nỗi xúc động của Thanh Thảo làm nên cảm hứng của bài thơ cũng bắt đầu từ câu thơ của Lorca: “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn ghi ta”.

    Viết về một nhà thơ hiện đại, một người con của đất nước Tây Ban Nha, Thanh Thảo đã dựng nên một chân dung bằng thơ sống động. Không gian mở đầu bài thơ là những biểu tượng đặc trưng của văn hóa xứ sở những trận đấu bò, hiện hữu tất cả chất say phóng cuồng nghệ sĩ:

    những tiếng đàn bọt nước

    Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt

    li-la li-la li-la

    đi lang thang về miền đơn độc

    với vầng trăng chếnh choáng

    trên yên ngựa mỏi mòn…
    Cái độc đáo của bài thơ này chính là ở những thủ pháp hiện đại mà hình ảnh không hề cầu kỳ xa lạ vẫn giúp người đọc hình dung chất Tây Ban Nha không trộn lẫn. Thanh Thảo có lối diễn đạt câu thơ không viết hoa đầu dòng, tạo mạch thơ liên tục, xâu chuỗi với nhau để nối kết các biểu tượng đầy sức ám ảnh : đất nước của những làn điệu ghi ta – Tây Ban cầm, của áo choàng matador – đấu sĩ, của những giấc mơ hiệp sĩ của chàng Đôn Kihôtê đã cuốn hút người đọc bằng chất men say chếnh choáng cả vầng trăng. Không chỉ có thế, ghi ta của chàng nghệ sĩ còn vang những âm điệu rất lạ « li-la li-la li-la » gọi về sắc tím của hoa tử đinh hương, âm thanh và màu sắc hoà quyện, dìu dịu vẻ đẹp của một nỗi buồn trữ tình. Bài thơ cuốn người đọc vào cái âm hưởng li-la ngân mãi không dứt ấy. Đó cũng là những gì đã xuất hiện trong thơ Lorca, ca ngợi một đất nước Tây Ban Nha tươi đẹp và hào hiệp với khát vọng công lý, tự do.

    Tây Ban Nha của thời Lorca còn là đất nước sôi sục những cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít , ghi ta của Lorca cất lên lời ca tranh đấu : «Ghi ta bần bật khóc – Không thể nào – dập tắt » (thơ Lorca). Bởi vậy diễn tả khoảnh khắc người chiến sĩ ấy bị bọn phát xít sát hại, Thanh Thảo cũng đã dựng nên bầu không gian kinh hoàng những ấn tượng chết chóc : Tây Ban Nha hát nghêu ngao – bỗng kinh hoàng –áo choàng bê bết đỏ-Lorca bị điệu về bãi bắn – chàng đi như người mộng du…Những câu thơ tiếp nối diễn tả tột cùng cho cảm giác đau đớn uất nghẹn trước sự tàn bạo của bọn độc tài phát xít :

    tiếng ghi ta nâu

    bầu trời cô gái ấy

    tiếng ghi ta lá xanh biết mấy

    tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan

    tiếng ghi ta

    ròng ròng máu chảy…

    Điệp khúc dồn dập qua nhịp thơ Thanh Thảo như đã lột tả được cái bàng hoàng căm phẫn trong bản ghi ta bi tráng! Màu nâu của đất, của làn da rám nắng, màu xanh của lá của bầu trời như tương phản gay gắt và dữ dội với màu đỏ ròng ròng máu chảy. Cảm giác vỡ oà đau đớn uất nghẹn trong tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan. Nỗi kinh hoàng trong cảm giác mất mát cũng nhân lên gấp bội, nỗi đau như xé lòng khi hình dung ra cảnh kẻ thù sát hại người nghệ sĩ tranh đấu cho tự do.

    Những câu thơ tiếp theo như đặc tả cho một sự sống khác, mãnh liệt, âm thầm mà bất tử :

    không ai chôn cất tiếng đàn

    tiếng đàn như cỏ mọc hoang

    giọt nước mắt vầng trăng

    long lanh trong đáy giếng

    Đoạn thơ tái hiện khoảnh khắc kẻ thù của Lorca hèn hạ thủ tiêu chàng, ném xác xuống giếng, nhưng qua hình tượng âm thanh tiếng đàn ta nhận ra một sức sống mãnh liệt vẫn tiếp tục. Cảm giác bi tráng hiện hữu qua những liên tưởng về cỏ mọc hoang, giọt nước mắt vầng trăng, đáy giếng tạo cảm giác trống vắng sau sự hy sinh anh dũng của Lorca. Thanh Thảo rất có ý thức khi so sánh tiếng đàn với cỏ mọc hoang để cảm nhận về sức lan toả của sự sống mãnh liệt không gì có thể hủy hoại được. Có khoảng lặng sau ánh sáng vầng trăng nhưng đủ diễn tả nỗi tiếc thương long lanh trong đáy giếng, nơi kẻ thù tưởng có thể vùi chôn tinh thần tự do bất tử của Lorca.

    Vì lẽ đó, những câu thơ Thanh Thảo đã tái hiện sự sống của Lorca thật kỳ diệu và xúc động, con người đã hoá thân vào âm thanh của đàn ghi ta, tan chảy hoà cùng dòng sông bất tận:

    Lorca bơi sang ngang

    Trên chiếc ghi ta màu bạc

    Chàng ném lá bùa cô gái di gan

    Vào xoáy nước

    Chàng ném trái tim mình

    Vào lặng yên bất chợt

    li-la li-la li-la…

    Những câu thơ diễn tả một hành trình đối mặt với định mệnh của người nghệ sĩ tài hoa người Tây Ban Nha, như một thái độ bình thản trước số phận. Lá bùa – định mệnh, trái tim lặng yên để làm nên một sự sống trường tồn vượt qua và vút lên vang động khắp không gian. Khúc đàn tự do ấy lại vang lên : li-la li-la li-la… Tiếng đàn mang tên loài hoa theo tiếng Tây Ban Nha như một sự sống lặng lẽ toả hương, hiện hữu giữa cuộc đời. Hai lần Thanh Thảo dùng động từ ném để diễn tả nhằm làm nổi bật lên vẻ đẹp của con người từ lâu dám coi khinh cái chết, bởi cái chết do kẻ thù gây ra cũng không thể ngăn cản tư tưởng, tâm hồn Lorca hoà vào với sự sống bất tử của nhân dân.

    Đàn ghi ta của Lorca là một bài thơ hay của Thanh Thảo, không chỉ đã tạo dựng chân dung người nghệ sĩ – chiến sĩ Garcia Lorca một cách trung thực, mà còn khiến người đọc cảm nhận rõ vẻ đẹp tâm hồn, tính cách đậm chất Tây Ban Nha của Lorca. Bài thơ giàu nhạc điệu, ngỡ như chính tác giả đã để lòng mình đồng điệu với sự sống Lorca trong giờ phút đối mặt với họng súng quân thù.

    Tiếng đàn ấy, sức sống ấy vẫn ngân vang những tiếng li-la li-la li-la để hiện hữu sống động hình ảnh một Lorca với chiếc ghi ta màu bạc, vẫn rong ruổi trên hành trình dân tộc Tây Ban Nha, hát lên bài ca tranh đấu, bài ca tình yêu sự sống. Phút gặp gỡ của nhà thơ Việt Nam Thanh Thảo với Lorca đã làm nên một bài thơ còn nóng hổi hơi thở cuộc sống hiện đại, ca ngợi người chiến sĩ trong đội ngũ đấu tranh vì tự do công lý, quyết không cúi đầu trước các thế lực bạo tàn./.

    Trần Hà Nam

    Sóng – Xuân Quỳnh

    <Trở về trang Ngữ văn>

    Xuân Quỳnh

    Tác giả

    Xuân Quỳnh (1942-1988)
    Tên thật: Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, vốn là diễn viên múa từ năm 13 tuổi, có thơ đăng báo năm 19 tuổi, trở thành nhà thơ chuyên nghiệp sau khi qua lớp bồi dưỡng những người viết văn trẻ khóa đầu tiên của Hội Nhà Văn Việt Nam (1962-1964).
    Chủ đề thơ Xuân Quỳnh thường là những vấn đề nội tâm: kỷ niệm tuổi thơ, tình yêu gia đình… Hiện thực xã hội, sự kiện đời sống hiện diện như một bối cảnh cho tâm trạng. Do vậy thơ Xuân Quỳnh hướng nội, rất tâm trạng cá nhân nhưng không là thứ tháp ngà xa rời đời sống. Thơ chị là đời sống đích thực, đời sống của chị trong những năm đất nước còn chia cắt, còn chiến tranh, còn nghèo, còn gian khổ, là những lo toan con cái, cơm nước, cửa nhà của một người phụ nữ, người phụ nữ làm thơ thường ngược xuôi trên mọi ngả đường bom đạn. Xuân Quỳnh không làm ra thơ, không chế tạo câu chữ mà chị viết như kể lại những gì chị đã sống, đã trải. Nét riêng của Xuân Quỳnh so với thế hệ nhà thơ hiện đại cùng thời chính là ở khía cạnh nội tâm đó. Thơ chị là thơ mang tâm trạng. Thời ấy nhiều bài thơ thiên về phản ánh sự kiện, cốt để được việc cho đời, còn tâm trạng tác giả thường là tâm trạng chung của xã hội, vui buồn tác giả hòa trong vui buồn chung của công dân. Tâm trạng thơ Xuân Quỳnh là tâm trạng nảy sinh từ đời sống của chính chị, từ hoàn cảnh của riêng chị. Viết trên đường 20 là bài thơ chiến tranh nhưng lại mang nỗi lòng trăn trở xao xác của một người đang yêu. Có bài bề bộn chi tiết hiện thực như một ký sự. Những năm ấy, đúng là ký sự về đời sống Hà Nội những năm chống Mỹ, nhưng nó không thành ký mà vẫn là thơ do nỗi lòng riêng của tác giả đã tạo nên một mạch trữ tình xâu chuỗi các chi tiết rời rạc của ngày thường lại, tổ chức nó thành kết cấu của bài thơ. Xuân Quỳnh có tài tỏa lên các chi tiết ngẫu nhiên quan sát được từ đời sống một từ trường cảm xúc của nội tâm mình, biến các chi tiết đời trở nên thơ, có sức gợi, sức ám ảnh kỳ lạ (Trời trở rét, Không đề, Gió Lào cát trắng, Mùa hoa doi, Hoa cỏ may…)
    Thơ Xuân Quỳnh giàu tình cảm, tình cảm sâu và tinh tế nhưng lẩn khuất phía sau tình cảm ấy lại là tư tưởng có tính khái quát, triết lý (Cơn mưa không phải của mình, Đồi đá ong và cây bạch đàn, Chuyện cổ tích về loàìi người, Những người mẹ không có lỗi…) Đấy là những triết lý nảy sinh từ đời sống, nó có tính thực tiễn, giúp ích thật sự cho người đọc nhận thức và xử lý việc đời, không phải thứ triết lý tư biện, viễn vọng mà chẳng dùng được vào việc gì.
    Đề tài, đối với Xuân Quỳnh, không phải là quan trọng. Điều chị quan tâm là chủ đề. Thơ Xuân Quỳnh bao giờ cũng có tứ, chị dùng tứ để bộc lộ chủ đề. Đây là một đóng góp đáng quý của Xuân Quỳnh vì giai đoạn ấy thơ chúng ta rất lỏng về tứ. Xuân Quỳnh có năng khiếu quan sát. Chị quan sát bằng tất cả giác quan và phong phú trong liên tưởng. Chi tiết vốn quen thuộc bỗng trở nên mới lạ, tạo ý vị cho câu thơ. Một màu cỏ mùa xuân: Cỏ bờ đê rất lạ/ Xanh như là chiêm bao. Tiếng mưa trên lá cọ: Mưa trên cọ bàng hoàng rồi vụt tạnh.
    Cũng có thể vì có tài quan sát mà ở một số bài Xuân Quỳnh ham tả, ham kể. Kể có duyên nhưng vẫn làm loãng chất thơ. Những bài thơ dài của Xuân Quỳnh thường dài vì rậm chi tiết.
    Xuân Quỳnh được coi là nhà thơ nữ hàng đầu của nửa cuối thế kỷ 20.
    Hà Nội, 20-3-2000
    VŨ QUẦN PHƯƠNG
    Thiết tưởng trong thi ca hiện đại khó có bài thơ nào, ca khúc nào chuyển tải được sự tha thiết, nồng nàn và cả hương vị của tình yêu bằng các ca khúc Thuyền và biển và Thư tình cuối mùa thu (thơ Xuân Quỳnh, Phan Huỳnh Điểu phổ nhạc). Đó là một sự giao cảm và kết hợp tuyệt vời giữa một người được coi là nhà thơ của tình yêu, còn người kia là nhạc sĩ của tình yêu.
    Nhân ngày Tình yêu, xin gửi những người đang yêu câu thơ bất hủ: “Chỉ còn anh và em cùng tình yêu ở lại”.
    Xuân Quỳnh tài hoa và xinh đẹp. Người con gái mồ côi mẹ, sống với bà nội quê ở xã La Khê, huyện Hoài Đức (Hà Tây) ấy mới 13 tuổi (năm 1955) đã được tuyển vào Đoàn Văn công trung ương và trở thành diễn viên múa chuyên nghiệp, từng đi biểu diễn ở nước ngoài và dự Đại hội Thanh niên sinh viên thế giới năm 1959 tại Vienne (Áo)… Nhưng Xuân Quỳnh không tự thỏa mãn với nghề múa, trong tâm thức chị luôn thôi thúc được viết, được trang trải những suy nghĩ dồn nén của mình ra trang giấy.
    Tốt nghiệp Trường Bồi dưỡng viết văn khóa I (1962-1963), từ đó cho đến lúc qua đời Xuân Quỳnh gắn chặt với nghiệp cầm bút… Phàm người tài hoa thường đa cảm, truân chuyên: cuộc hôn nhân lần đầu tiên với một nghệ sĩ violon gãy đổ sau khi họ chuyển về khu nhà 96 Phố Huế (Hà Nội) – “cư xá” dành riêng cho văn nghệ sĩ. Chính ở đó Xuân Quỳnh đã gặp Lưu Quang Vũ – một cuộc gặp gỡ định mệnh! Vũ nhỏ hơn Quỳnh 6 tuổi (1948), trước khi yêu Quỳnh đã lập gia đình với diễn viên điện ảnh T.U ! Cuộc tình này đã cho Lưu Quang Vũ “biết thế nào là… đau khổ” và cả sự đắng cay, chua chát dù lúc này anh đã có chút tiếng tăm trong làng thơ. Chính lúc ấy hai hồn thơ “láng giềng” cô đơn và đau khổ đã tìm đến nhau, vực nhau dậy và dìu nhau đi. Nói đúng hơn thì chính định mệnh đã đưa Xuân Quỳnh đến với Lưu Quang Vũ để thắp lên trong anh ngọn lửa ấm tin yêu, giúp anh vượt qua giai đoạn suy sụp tinh thần để từ đó tài năng của anh như được chắp thêm đôi cánh trong lĩnh vực nghệ thuật. Chính tình yêu của Xuân Quỳnh góp phần quan trọng nhất giúp Lưu Quang Vũ sau này trở thành một kịch tác gia sung sức và uy tín nhất trong thập niên 80.
    Kể từ lúc chung sống với nhau cho đến ngày cùng chết bên nhau (tử nạn trong tai nạn giao thông cùng con trai út Lưu Quỳnh Thơ ngày 29/8/1988 tại cầu Phú Lương, thị xã Hải Dương) cả hai đều sáng tác rất sung sức, đặc biệt là Xuân Quỳnh với những bài thơ tình nổi tiếng: Sân ga chiều em đi, Tự hát, Thuyền và biển, Thư tình cuối mùa thu… Nhà thơ Nguyễn Duy đã từng viết: “Xuân Quỳnh – Lưu Quang Vũ, hai gương mặt tiêu biểu nhất, một đối thoại tình yêu đẹp nhất của thế hệ chúng tôi. Những bài thơ ấy không chỉ là tiếng nói riêng của hai người mà đã trở thành tiếng nói chung của bao đôi lứa yêu nhau”.
    Thơ tình Xuân Quỳnh rất hay. Điều đó ai cũng thừa nhận, nhưng bài thơ còn hay hơn nữa khi được nâng lên bởi người nhạc sĩ tài hoa Phan Huỳnh Điểu. Những người yêu nhau ai mà chẳng từng hát Thuyền và biển, Thư tình cuối mùa thu… Nhất là bài Thư tình… với giai điệu trữ tình, đằm thắm cung sol thứ. Tình yêu đã vượt qua mùa bão gió, qua ngàn cơn thác lũ, để bây giờ “chỉ còn anh và em cùng tình yêu ở lại” – lời tự tình được nhắc đi nhắc lại nhưng vẫn nghe có chút gì buồn thương, hoài cảm… Chúng tôi đã có cuộc trao đổi với nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu chung quanh các tình khúc này.

    – Ông là người viết rất thành công những ca khúc phổ thơ. Do đâu ông sở đắc với loại hình này ? Và cảm nhận của ông riêng với thơ Xuân Quỳnh ?

    – Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu: Phải nói thật là rất ít nhạc sĩ sáng tác có khả năng sử dụng ngôn ngữ (ca từ) phong phú bằng các nhà thơ. Tôi lười… chọn chữ, cho nên rất hay đọc thơ và hễ bắt gặp bài thơ nào hay, hợp với tình cảm, tâm trạng thì phổ. Cũng một câu nói “Em yêu anh” thốt ra từ miệng một cô gái bình thường nghe đã… xao xuyến rồi, nếu như câu nói ấy lại được thốt ra với… âm điệu trầm bổng đầy nhạc tính, dĩ nhiên nghe “phê” hơn ! Thơ Xuân Quỳnh vừa trẻ trung vừa sâu sắc. Đã hay về lời văn lại hay cả về tình cảm và âm điệu. Thí dụ câu Chỉ có thuyền mới hiểu… đọc không thôi mà nghe rất hay.

    – Hẳn ông là người rất hiểu Xuân Quỳnh?

    – Không chỉ hiểu mà tôi còn biết rất rõ về Xuân Quỳnh bởi chúng tôi cùng ở khu nhà tập thể 96 Phố Huế. Căn hộ của tôi sát cạnh hộ nhà thơ Lưu Quang Thuận (bố Lưu Quang Vũ), càng thân bởi đồng hương Đà Nẵng. Tôi cũng có quen với anh nghệ sĩ violon – chồng trước của Xuân Quỳnh. Khi Quỳnh về sống với Vũ, nhà tôi và nhà ông Thuận cùng nhường cho đôi vợ chồng mới này 2 cái… phòng tắm sát vách, họ đập bỏ bức vách để có “căn hộ… 4 mét vuông”, chật chội là thế nhưng họ đã sống bên nhau cho đến lúc không còn hiện diện trên cõi đời này.

    – Nhiều người gọi ông là “nhạc sĩ của tình yêu”, nhân ngày Tình yêu ông có thể tiết lộ điều gì đã tạo nên phong cách đó?

    – Danh hiệu “nhạc sĩ của tình yêu” là do nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát đã ưu ái đặt cho. Mà ngẫm cũng… đúng thiệt, bởi từ tác phẩm đầu tay Trầu cau tôi đã hướng vào đề tài tình yêu và gắn bó với đề tài này xuyên suốt cho đến tận bây giờ. Nhân ngày Tình yêu, tôi chúc các bạn trẻ – những người đang yêu nhau càng yêu nhau… quên trời đất, để “chỉ còn anh và em cùng tình yêu ở lại”.
    (Theo Thanh Niên)

    Tác phẩm

    BÀI THƠ “SÓNG” – XUÂN QUỲNH

    Dữ dội và dịu êm
    Ồn ào và lặng lẽ
    Sóng không hiểu nổi mình
    Sóng tìm ra tận bể.
    ***
    Ôi con sóng ngày xưa
    Và ngày sau vẫn thế
    Nỗi khát vọng tình yêu
    Bồi hồi trong ngực trẻ.
    ***
    Trước muôn trùng sóng bể
    Em nghĩ về anh, em
    Em nghĩ về biển lớn
    Từ nơi nào sóng lên?
    ***
    – Sóng bắt đầu từ gió
    Gió bắt đầu từ đâu?
    Em cũng không biết nữa
    Khi nào ta yêu nhau
    ***
    Con sóng dưới lòng sâu
    Con sóng trên mặt nước
    Những con sóng nhớ bờ
    Ngày đêm không ngủ được
    Lòng em nhớ đến anh
    Cả trong mơ còn thức
    ***
    Dẫu xuôi về phương Bắc
    Dẫu ngược về phương Nam
    Nơi nào em cũng nghĩ
    Hướng về anh – một phương.
    ***
    Ở ngoài kia đại dương
    Trăm nghìn con sóng đó
    Con nào chẳng tới bờ
    Dẫu muôn vời cách trở
    ***
    Cuộc đời tuy dài thế
    Năm tháng vẫn đi qua
    Như biển kia dẫu rộng
    Mây vẫn bay về xa
    ***
    Làm sao được tan ra
    Thành trăm con sóng nhỏ
    Giữa biển lớn tình yêu
    Để ngàn năm còn vỗ.

    Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm

    <Trở về trang Ngữ văn>

    Nguyễn Khoa Điềm

    Tác giả

    Tên thật: Nguyễn Khoa Điềm
    Sinh năm: 1943
    Bút danh: Nguyễn Khoa Điềm
    Nơi sinh: Phong Điền – Thừa Thiên- Huế
    Thể loại: Thơ, ký

    Tác phẩm

    – Đất ngoại ô (1973)
    – Mặt đường khát vọng (1974)
    – Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986)
    – Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990)
    – Cửa thép (1972)

    Đất và khát vọng – Trích trường ca Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm

    Khi ta lớn Đất Nước đã có rồi
    Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa..” mẹ thường hay kể
    Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
    Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.
    Tóc mẹ thì bới sau đầu
    Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
    Cái kèo, cái cột thành tên
    Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
    Đất Nước có từ ngày đó..
    Đất là nơi anh đến trường
    Nước là nơi em tắm
    Đất Nước là nơi ta hò hẹn
    Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
    Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
    Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
    Thời gian đằng đẵng
    Không gian mênh mông
    Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
    Đất là nơi Chim về
    Nước là nơi Rồng ở
    Lạc Long Quân và Âu Cơ
    Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
    Những ai đã khuất
    Những ai bây giờ
    Yêu nhau và sinh con đẻ cái
    Gánh vác phần người đi trước để lại
    Dặn dò con cháu chuyện mai sau
    Hằng năm ăn đâu làm đâu
    Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
    Trong anh và em hôm nay
    Đều có một phần Đất Nước
    Khi hai đứa cầm tay
    Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
    Khi chúng ra cầm tay mọi người
    Đất Nước vẹn tròn, to lớn
    Mai này con ta lớn lên
    Con sẽ mang Đất Nước đi xa
    Đến những tháng ngày mơ mộng
    Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
    Phải biết gắn bó và san sẻ
    Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
    Làm nên Đất Nước muôn đời..
    Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
    Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
    Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
    Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
    Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
    Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
    Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
    Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
    Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
    Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
    Ôi Đất Nước sau 4.000 năm đi đâu ta cũng thấy
    Những cuộc đời đã hóa núi sông ta
    Em ơi em
    Hãy nhìn rất xa
    Vào 4.000 năm Đất Nước
    Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
    Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
    Cần cù làm lụng
    Khi có giặc người con trai ra trận
    Người con gái trở về nuôi cái cùng con
    Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
    Nhiều người đã trở thành anh hùng
    Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhỏ
    Nhưng em biết không
    Có biết bao người con gái, con trai
    Trong 4.000 lớp người giống ta lứa tuổi
    Họ đã sống và chết
    Giản dị và bình tâm
    Không ai nhớ mặt đặt tên
    Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
    Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
    Họ chuyển lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
    Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
    Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
    Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
    Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
    Có nội thù thì vùng lên đánh bại
    Để Đất Nước là Đất Nước nhân dân
    Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
    Dạy anh biết “yêu em từ thở trong nôi”
    Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
    Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
    Đi trả thù mà không sợ dài lâu
    Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
    Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
    Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
    Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi
    Người dạy ta nghèo ăn cháo ăn rau
    Biết ăn ớt để đánh lừa cái lưỡi
    Cái cuốc, con dao, đánh lừa cái tuổi
    Chén rượu đánh lừa con mỏi, cơn đau
    Con nộm nag tre đánh lừa cái chết
    Đánh lừa cái rét là ăn miếng trầu
    Đánh lừa thằng giặc là chuyện Trạng Quỳnh
    Nhưng lạ lùng thay, nhân dân thông minh
    Không hề lừa ta dù cao dao, cổ tích
    Ta lớn lên bằng niềm tin rất thật
    Biết bao nhiêu hạnh phúc có trên đời
    Dẫu phải cay đắng dập vùi
    Rằng cô Tấm cũng về làm hoàng hậu
    Cây khế chua có đại bàng đến đậu
    Chim ăn rồi trả ngon ngọt cho ta
    Đất đai cỗi cằn thì người sẽ nở hoa
    Hoa của đất, người trồng cây dựng cửa
    Khi ta đến gõ lên từng cánh cửa
    Thì tin yêu ngay thẳng đón ta vào
    Ta nghẹn ngào, Đất Nước Việt Nam ơí
    Em nghe không trái thị đã rơi xuống tay người
    Trai không chỉ rơi vì sức hút đất đai
    Trái rơi vì tay người ao ước
    Khi trái chạm tay người và người ấm ủ
    Thì lừng hương và cô Tấm bước ra
    Đi trả thù và sống Tự do
    Không rơi xuống bùn, ôi trái thị quê ta
    Để bùn lấm và thành bùn vạn kiếp
    Rơi vào tay người, đó là định luật
    Của đấu tranh và nhân nghĩa Việt Nam
    Tuổi trẻ ơi trong sương gió tháng năm
    Ta đã lớn rồi, chín đầy hy vọng
    Hãy ngã xuống tay nhân dân, hỡi sắc vàng của nắng
    Hỡi hương thơm của nồng mặn mồ hôi..
    Hãy ngã vào tay nhân dân, đừng vãi đừng rơi
    Đừng do dự, đừng hoài nghi nữa
    Hãy yêu nhân dân và nghe người nhắn nhủ
    Hãy tìm sức mạnh trên cơ thể nhân dân
    Nhân dân đang đi lên đội ngũ trùng trùng
    Thế vô tận của nghìn năm giết giặc
    Lửa đã cháy hồng hào mặt đất
    Mùa chín tình yêu, mùa chín hận thù
    Không bao giờ xương máu phải bơ vơ
    Ôi sông núi uy nghi ngàn dặm đất
    Có nghe tiếng chúng con: Xin có mặt
    Nguyện làm người xung kích của quê hương
    Đấy tiếng hát chúng con: tiếng hát xuống đường!

    Trích Trường ca Mặt đường khát vọng – 1974, Nhà xuất bản Giáo dục 2005

    MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ ĐOẠN TRÍCH

    Chủ đề

    Bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm nói về cội nguồn đất nước theo chiều dài lịch sử đằng đẵng và không gian địa lý mênh mông. Hình tượng Núi Sông gắn liền với tâm hồn và chí khí của Nhân dân, những con người làm ra Đất nước. Đất nước trường tồn hứa hẹn một ngày mai đẹp tươi và hát ca.

    Những đoạn thơ hay, những ý tưởng đẹp

    1. Đất nước – cội nguồn dân tộc

    Đất nước có đã lâu rồi từ những “ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”. Đất nước gắn liền với mĩ tục thuần phong, với cổ tích truyền thuyết “Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn – Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc – Tóc mẹ thì bới sau đầu – Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.

    – Đất nước gắn bó với những cái bình dị thân thuộc quanh ta:

    “Cái kèo, cái cột thành tên
    Hạt gạo phải một nằng hai sương xay, giã giần, sàng”

    Đất nước là “nơi ta hò hẹn”, là “nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”, là “nơi anh đến trường” là “nơi em tắm”…

    – Đất nước gắn liền với dân ca “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc…, con cá ngư ông móng nước biển khơi”, gắn liền với huyền thoại “Trăm trứng” thiêng liêng:

    “Đất là nơi Chim về
    Nước là nơi Rồng ở
    Lạc Long Quân và Âu Cơ
    Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”

    – Đất nước trường tồn theo thời gian đằng đẵng, trải rộng trên một “không gian mênh mông”. Yêu thương biết bao, bởi lẽ “Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ”, là quê hương xứ sở ngàn đời:

    “Hằng năm ăn đâu làm đâu
    Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”

    – Đất nước lâu đời “ngày xửa ngày xưa”, Đất nước hôm nay, và Đất nước mai sau. Một niềm tin cao cả thiêng liêng:

    “Mai này con ta lớn lên
    Con sẽ mang Đất nước đi xa
    Đến những tháng ngày mơ mộng”

    Đất nước là của mọi người, trong đó có một phần của “anh và em hôm nay”. Đất nước mỗi ngày một tốt đẹp vững bền, trở nên “vẹn tròn to lớn”. Đất nước hình thành và trường tồn bằng máu xương của mỗi chúng ta. Tình yêu nước là sự “gắn bó và san sẻ”. Đây là một trong những đoạn thơ tâm tình sâu lắng, hay nhất trong bài thơ nói về tình yêu đất nước:

    “Em ơi Đất nước là máu xương của mình
    Phải biết gắn bó và san sẻ.
    Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
    Làm nên đất nước muôn đời”

    Tóm lại, 42 câu thơ trong phần I nói về nguồn gốc của Đất nước và sự gắn bó, san sẻ đối với Đất nước. Ý tưởng sâu sắc ấy được diễn tả bằng một thứ ngôn ngữ đậm đà màu sắc dân gian, một giọng điệu thủ thỉ tâm tình vô cùng thấm thía, xúc động. Chất trữ tình hòa quyện với tính chính luận.

    2. Đất nước của Nhân dân – Đất nước của ca dao thần thoại

    Đất nước hùng vĩ. Giang sơn gấm vóc. Ý tưởng ấy, niềm tự hào ấy đã được nhiều thi sĩ bao đời nay nói đến thật hay, thật xúc động. Nguyễn Khoa Điềm nói về ý tưởng ấy niềm tự hào ấy rất thơ và rất độc đáo. Tượng hình, sông núi gắn liền với những đức tính quý báu, những phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam. Là sự thủy chung trong tình yêu. Là truyền thống anh hùng bất khuất, là tinh thần đoàn kết, nghĩa tình. Là khát vọng bay bổng, là tinh thần hiếu học. Là đức tính cần mẫn sum vầy, là chí khí tự lập tự cường. Mỗi tên núi tên sông trở nên gần gũi trong tâm hồn ta:

    “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu
    Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
    Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
    Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
    Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
    Người học trò nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút non Nghiên
    Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
    Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm…”

    Tính phẩm mỹ, tính hình tượng và tính riêng phong cách được hội tụ qua đoạn thơ này, tạo nên giá trị nhân văn đích thực, làm cho người đọc vô cùng thú vị khi cảm nhận và khám phá.

    Tên núi, tên sông, tên ruộng đồng, gò bãi… mang theo “ao ước”, thể hiện “lối sống ông cha” là tâm hồn dân tộc:

    “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
    Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
    Ôi Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
    Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”.
    Mồ hôi và máu của Nhân dân, của những anh hùng vô danh đã dựng xây và bảo vệ Đất nước:

    “Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
    Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
    Cần cù làm lụng
    Khi có giặc người con trai ra trận
    Người con gái trở về nuôi cái cùng con
    Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
    Nhiều người đã trở thành anh hùng”

    Chính nhân dân đã “giữ và truyền” hạt lúa, đã “truyền lửa”, “truyền giọng điệu”, “gánh tên làng tên xã”…, “đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái”. Chính Nhân dân đã làm nên Đất nước, để Đất nước là của Nhân dân. Vần thơ hàm chứa ý tưởng đẹp, một lối diễn đạt ý vị ngọt ngào:

    “Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
    Có nội thù thì vùng lên đánh bại
    Để Đất nước này là Đất nước Nhân dân
    Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại”

    – Đất nước mang sức sống mãnh liệt, tiềm tàng vì Nhân dân đã biết yêu và biết ghét, bền chí và dẻo dai, biết “quý công cầm vàng”, “biết trồng tre đợi ngày thành gậy”, biết trả thù cho nước, rửa hận cho giống nòi mà “không sợ dài lâu”.

    – Hình ảnh người chèo đò, kéo thuyền vượt thác cất cao tiếng hát là một biểu tượng nói lên sức mạnh Nhân dân chiến thắng mọi thử thách, lạc quan tin tưởng đưa Đất nước đi tới một ngày mai vô cùng tươi sáng:

    “Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
    Mà khi về Đất nước mình thì bắt lên câu hát
    Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
    Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”

    Kết luận

    Giọng thơ tâm tình tha thiết. Vận dụng tục ngữ ca dao, dân ca, cổ tích, truyền thuyết… một cách hồn nhiên thú vị. Có một số đoạn thơ rất đặc sắc: ý tưởng đẹp, cảm xúc và hình tượng hài hòa, hội tụ nên những vần thơ mĩ lệ. Tư tưởng đất nước của Nhân dân được thể hiện vô cùng sâu sắc với tất cả niềm tự hào và tình yêu nước. Một đôi chỗ còn dàn trải, thiếu hàm súc. Nguyễn Khoa Điềm đã góp cho đề tài Đất nước một bài thơ hay, ý vị đậm đà.

    Tây tiến – Quang Dũng

    <Trở về trang Ngữ văn>

    Tác giả: Quang Dũng

    TÁC PHẨM – TÁC GIẢ
    Nhà thơ Quang Dũng tên thật là Bùi Đình Diệm, sinh năm 1921 tại làng Phượng Trì, huyện Đan Phượng tỉnh Sơn Tây, nay thuộc ngoại thành Hà Nội, và mất vào năm 1988. Ông là một nhà thơ, tác giả của một số bài thơ nổi tiếng như Tây Tiến, Đôi mắt người Sơn Tây, Đôi bờ… ngoài ra còn là một họa sĩ, nhạc sĩ.
    Thời còn cắp sách đến trường, nhà thơ Quang Dũng học Ban trung học tại trường Thăng Long; khi tốt nghiệp ông đi dạy học ở Sơn Tây. Vào những năm chống Pháp, nhà thơ Quang Dũng gia nhập quân đội, đến năm 1945 trở thành phóng viên báo Chiến đấu. Năm 1947, ông được điều đi học Trường bổ túc trung cấp quân sự Sơn Tây. Sau khóa học, về làm đại đội trưởng thuộc tiểu đoàn 212, Trung đoàn Tây Tiến. Cuối năm 1948, sau chiến dịch Tây Tiến, ông làm trưởng tiểu ban tuyên huấn Trung đoàn 52 Tây Tiến, rồi làm trưởng đoàn Văn nghệ Liên khu III.
    Ngoài tài làm thơ, nhà thơ Quang Dũng còn viết rất nhiều truyện ngắn và thoại kịch, cũng như có tranh sơn dầu đem triển lãm cùng với các họa sĩ nổi tiếng khác. Đồng thời ông còn sáng tác nhạc, nhạc phẩm “Ba Vì” của ông từng được mọi người hát trong thời kháng chiến chống Pháp.
    Tháng 8 năm 1951, nhà thơ Quang Dũng xuất ngũ. Sau 1954, ông làm biên tập viên cho báo Văn nghệ, rồi chuyển về Nhà xuất bản Văn học. Sau vụ Nhân Văn – Giai Phẩm, nhà thơ Quang Dũng lui về ẩn thân trong nghèo nàn và bệnh tật. Bấy giờ thơ của ông bị phê bình mang hơi hướng “tiểu tư sản”, vì trong miền Nam thời gian đó, thơ ông được đem ra xuất bản và phổ biến rộng rãi được rất nhiều người hâm mộ. Về sau, như những nhà thơ lớn khác, Nguyễn Bính, Hồ Dzếnh,… ông mai một và mất đi trong âm thầm. Ông mất ngày 13/10/1988 tại bệnh viện Thanh Nhàn, Hà Nội.
    Theo nhạc sĩ Trịnh Hưng, một người bạn rất thân với nhà thơ Quang Dũng kể lại :
    Quang Dũng bắt đầu làm thơ vào năm 16 tuổi với bài “Chiêu Quân”. Các bài thơ tình kế tiếp là “Cố quận”, “Suối tóc”, “Buồn êm ấm”… Anh ấy quân sự giỏi mà cầm kỳ thi họa cũng đủ hết. Tài ba nhiều thứ lắm, người lại cao lớn, đẹp trai. Thời kỳ đó, người ta nhìn anh ấy là một thần tượng vì vẻ đẹp nam nhi hùng tráng, có nhiều tài mà nói chuyện có duyên nữa. Được mọi người coi là thần tượng nhưng anh ấy là người đứng đắn, tử tế.
    Còn về bút hiệu Quang Dũng, nhạc sĩ Trịnh Hưng cho biết tiếp :
    – Lúc bấy giờ, anh ấy mới hai mươi tuổi, đã hoạt động chống Tây. Khi đó, mấy ông Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, Khái Hưng, Hoàng Đạo cũng đang hoạt động chống Tây. Quang Dũng lên Việt Bắc giúp con một người công chức đặc trách tỉnh đó, là cô Loan. Là gái mới, lại thấy ông này đẹp trai, học giỏi thành ra cô ấy yêu ông này ghê gớm lắm. Nhưng Quang Dũng lại không dám tính đến chuyện tình cảm vì sợ đang hoạt động và thấy việc chống Tây chưa thành công, thời gian còn dài sẽ khổ cho đời con gái. Nên từ giã cô ấy, ông sang tỉnh khác hoạt động thì bị Mật thám vây bắt, do đó ông mới trốn sang Tàu, đến học trường Hoàng Phố.
    Trong lúc Quang Dũng ở bên Tàu thì tại quê hương, Nhất Linh viết lại mối tình cô Loan yêu ông ấy (tiểu thuyết Đoạn Tuyệt), nhưng nói tên ra thì sợ không được, thành ra mới đổi tên là Dũng. In cuốn sách ra, Nhất Linh gửi cho ông ấy đang ở bên Tàu. Thấy đề tên là Dũng, ông ấy thích quá, mới bảo “Anh Tường Tam đặt cho mình cái tên Dũng hay lắm, bây giờ phải tìm một cái họ mà phải là họ nào anh hùng, hạp với tên Dũng cơ.”
    Do mẹ Quang Dũng họ Trần, ông ấy cũng thấy cụ Trần Hưng Đạo là người anh hùng, nên lấy họ Trần. Bây giờ phải thêm tên đệm, ông ấy nghĩ mãi ra cái tên “Quang” nên lấy tên là “Trần Quang Dũng”. Có tên Quang Dũng từ khi ông ấy ở bên Tàu. Từ bên Tàu về qua Yên Bái, ông ấy gặp cô Bùi thị Thạch thì lấy làm vợ cho đến ngày ông ấy mất.
    Cho đến nay, nhà thơ Quang Dũng đã xuất bản nhiều tập thơ như : Mây đầu ô, Bài thơ sông Hồng, Thơ Quang Dũng …
    Qua sơ lược tiểu sử trên, các giới văn nghệ sĩ thường có nhận xét về nhà thơ Quang Dũng cho rằng, ông là người đa tài, biết vẽ, thơ hay và hát giỏi. Bài thơ Tây Tiến của ông mang đậm nét hào hùng, bi tráng pha chất lãng mạn, đã được chọn giảng dạy trong giáo trình trung học phổ thông. Một số bài thơ của ông cũng đã được đem ra phổ nhạc như Phạm Duy phổ bài Tây Tiến; Phạm Đình Chương phổ Đôi mắt người Sơn Tây (từ hai bài thơ Đôi bờ và Đôi mắt người Sơn Tây), Cung Tiến với bài Kẻ ở. Đặc biệt bài thơ “Em mãi là 20 tuổi” được 3 nhạc sĩ Việt Dzũng, Phạm Trọng Cầu, Khúc Dương phổ thành ca khúc khác nhau.
    Nói về nhạc phẩm “Đôi mắt người Sơn Tây”. Vào năm 1948, nhà thơ Quang Dũng sáng tác bài “Đôi bờ”, bài thơ này đã gắn liền với tên tuổi của ông từ đó. Qua năm sau, năm 1949, ông viết về hoàn cảnh ly loạn nơi quê nhà, qua bài “Đôi mắt người Sơn Tây”. Đôi mắt này, rất nhiều người cho là của cô nào đó mà Quang Dũng yêu; nhưng thật ra, ông viết cho cô em ruột, là người có đôi mắt rất đẹp. Nhạc sĩ Phạm Đình Chương có quê ngoại cũng ở Sơn Tây, nên đã phổ ý hai bài thơ nói trên vào một tựa nhạc.

    Lịch sử một chuyện tình
    Về người vợ của nhà thơ Quang Dũng, tức bà Bùi Thị Thạch, tác giả Phan Lạc Tiếp từng kể :
    Bà Thạch xưa nổi tiếng là tiểu thư ở xứ sở núi rừng Yên Bái. Lúc đó bà dáng người cao ráo khoảng 1,65m, nước da trắng ngần, thường vận quần soóc trắng và đi xe đạp đua khiến cho bao nhiêu người phải mê mẩn. Đã sang tuổi 23 nhưng bà không ưng ai cho dù các đám hỏi từ sĩ quan, dạy học, tham phán, thừa phái v.v… ngày đêm rập rình dòm ngó.
    Cuối xuân năm 1942, bỗng dưng bên nhà hàng xóm có khách. Khách là một chàng trai trẻ, cao to, phong vận lãng tử, hào hoa, nét mặt nghiêm buồn, thường ngồi bên khung cửa sổ thổi sáo và ngâm câu : “Chàng trai trẻ vốn dòng hào kiệt” (thơ “Chinh phụ ngâm”). Khiến bà Thạch nghĩ người khách này có thể đồng tâm, đồng điệu với mình, vì bà mê “Chinh phụ ngâm” lắm. Bà đã tìm cách nói chuyện với chàng.
    Rồi chàng về Hà Nội. Bà ở lại bâng khuâng. Bà đã làm mấy câu thơ đề dưới ảnh chàng tặng :
    “Mắt rộng tìm chi ở chốn này
    Trần gian hẹp lắm vướng nhiều mây
    Anh đừng can nết phong sương nữa
    Rượu tình em sẽ chuốc anh say”.
    Vài hôm sau, bà nhận được phong thư đầu tiên. Bàng hoàng nhưng không dám tin vào người hay đi khắp chân trời góc bể, không đâu là nhà. Không ngờ từ hôm đó, cứ đều đặn 4 ngày, bà lại nhận được thư của chàng. Thư viết trên giấy pơluya màu xanh, có in hình bông hồng ở góc. Tiếc là bà không giữ được những bức thư này vì những năm ấy, sợ bọn chó săn Tây đánh hơi biết chắc chàng hay về nhà bà nên bà đã đốt sạch.
    Năm 1944, chàng từ biệt bà để đi xa. Chàng hát bài “Biệt ly” của Doãn Mẫn ngay bên chiếc cầu năm xưa để chia tay bà. Giọng của chàng trong trẻo và ấm áp. Năm 1947, Quang Dũng từ nước Tàu trở về, bao cô gái trẻ danh giá đánh tiếng mở lòng, Quang Dũng bảo với gia đình, ông lên Yên Bái nếu cô Thạch lấy chồng rồi thì mới về cưới vợ. Không ngờ bà Thạch vẫn một mực chờ đợi người viễn xứ trở về. Họ thành vợ thành chồng. Lúc đó bà Thạch đã 28 tuổi.
    Thành vợ chồng rồi, họ lại sống xa nhau và đôi lúc gặp nhau trong thoáng chốc, đến năm 1954 mới gặp lại nhau khi bà Thạch sinh cô con gái út Phương Thảo, lần đó nhà thơ Quang Dũng ở nhà để đón tay đứa con vừa lọt lòng mẹ. Từ đó ông bà đã ở bên nhau, chung nhau trong một cuộc sống đầy vất vả.
    Bà Thạch thuộc tầng lớp phụ nữ “nho gia” lấy bốn câu “Tam tòng Tứ dức” làm đầu, một thứ hình tượng người phụ nữ thường nép sau bóng chồng, nhẫn nhịn một đời vì chồng vì con. Bà khéo tay, làm nghề đan len để kiếm sống, và cả đời bà đan len để phụ giúp chồng con.
    Bà Thạch hiểu chồng, bà chấp nhận tất cả :
    “Tôi không mong nữa một kho tàng
    Không ước lầu cao giấc mộng sang
    Người về xin một hồn đơn chiếc
    Một phút bên nhau những ngọc vàng”.
    Và bà cũng từng viết những vần thơ so mình với công chúa Ngọc Hân – vợ vua Quang Trung Nguyễn Huệ khi xưa :
    “Chồng người là nhà vua
    Chồng tôi là nhà thơ
    Cách nhau 3 thế kỷ
    Cùng lưu danh muôn thuở
    Người xưa làm thơ “Ai tư vãn”
    Người nay làm thơ “Trách ai”
    “ai” trước và “ai” sau
    Nỗi niềm có khác nhau?
    Là một kiếp đàn bà đã theo chồng chấp cả…”.
    (còn 1 kỳ)

    TÂY TIẾN
    Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
    Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
    Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
    Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
    ***
    Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
    Heo hút cồn mây súng ngửi trời
    Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
    Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
    ***
    Anh bạn dãi dầu không bước nữa
    Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
    Chiều chiều oai linh thác gầm thét
    Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
    Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
    Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
    ***
    Doanh trại bừng lên hội đuốc, hoa
    Kìa em xiêm áo tự bao giờ
    Khèn lên man điệu nàng e ấp
    Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ
    ***
    Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
    Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?
    Có nhớ dáng người trên độc mộc
    Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?
    ***
    Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
    Quân xanh màu lá dữ oai hùm
    Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
    Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
    ***
    Rải rác biên cương mồ viễn xứ
    Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
    Áo bào thay chiếu anh về đất
    Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
    ***
    Tây Tiến người đi không hẹn ước
    Đường lên thăm thẳm một chia phôi
    Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
    Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

    Phù Lưu Chanh 1948
    Quang Dũng


    ĐÔI MẮT NGƯỜI SƠN TÂY
    Em ở thành Sơn chạy giặc về
    Tôi từ chinh chiến cũng ra đi
    Cách biệt bao lần quê Bất Bạt
    Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì
    oOo
    Vừng trán em vương trời quê hương
    Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương
    Tôi thấy xứ Đoài mây trắng lắm
    Em có bao giờ em nhớ thương
    oOo
    Từ độ thu về hoang bóng giặc
    Điêu tàn thôi lại nối điêu tàn
    Đất đá ong khô nhiều ngấn lệ
    Em có bao giờ lệ chứa chan
    oOo
    Mẹ tôi em có gặp đâu không
    Những xác già nua ngập cánh đồng
    Tôi cũng có thằng em còn bé dại
    Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông
    oOo
    Đôi mắt người Sơn Tây
    U uẩn chiều lưu lạc
    Buồn viễn xứ khôn khuây
    oOo
    Cho nhẹ lòng nhớ thương
    Em mơ cùng ta nhé
    Bóng ngày mai quê hương
    Đường hoa khô ráo lệ
    oOo
    Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
    Về núi Sài Sơn ngắm lúa vàng
    Sông Đáy chậm nguồn quanh phủ quốc
    Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng
    oOo
    Bao giờ tôi gặp em lần nữa
    Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa
    Đã hết sắc mầu chinh chiến cũ
    Còn có bao giờ em nhớ ta

    ĐÔI BỜ
    Thương nhớ ơ hờ, thương nhớ ai?
    Sông xa từng lớp lớp mưa dài
    Mắt kia em có sầu cô quạnh
    Khi chớm heo về một sớm mai ?
    oOo
    Rét mướt mùa sau chừng sắp ngự
    Bên này em có nhớ bên kia
    Giăng giăng mưa bụi quanh phòng tuyến
    Hiu hắt chiều sông lạnh bến Tề
    oOo
    Khói thuốc xanh dòng khơi lối xưa
    Đêm đêm sông Đáy lạnh đôi bờ
    Thoáng hiện em về trong đáy cốc
    Nói cười như chuyện một đêm mơ
    oOo
    Xa quá rồi em người mỗi ngã
    Bên này đất nước nhớ thương nhau
    Em đi áo mỏng buông hờn tủi
    Dòng lệ thơ ngây có dạt dào ?

    Tuyên ngôn độc lập – Hồ Chí Minh

    <Trở về trang Ngữ văn>

    Tham khảo bài giảng

    Tác giả : Hồ Chí Minh

    Tác giả : Hồ Chí Minh

    Hoàn cảnh lịch sử

    19/8/1945 chính quyền ở thủ đô Hà Nội đă về tay nhân dân ta. 23/8/1945, tại Huế trước hàng vạn đồng bào ta, vua Bảo Đại thoái vị. 25/8/1945, gần 1 triệu đồng bào Sài G̣n – Chợ Lớn quật khởi đứng lên giành chính quyền. Chỉ không đầy 10 ngày, Tổng khởi nghĩa và Cách mạng tháng Tám đă thành công rực rỡ.
    Cuối tháng 8/1945, tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Hà Nội, lănh tụ Hồ Chí Minh soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. Và ngày 2/9/1945; tại quảng trường Ba Đ́nh, Hà Nội, Người thay mặt Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trước hàng chục vạn đồng bào ta, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, mở ra một kỷ nguyên mới Độc lập, Tự do.

    Những điều cần biết

    1. Cơ sở pháp lư và chính nghĩa của bản Tuyên ngôn Độc lập là khẳng định quyền b́nh đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của con người. Đó là những quyền không ai có thể xâm phạm được; người ta sinh ra phải luôn luôn được tự do và b́nh đẳng về quyền lợi.
    Hồ Chủ Tịch đă trích dẫn 2 câu nổi tiếng trong 2 bản Tuyên ngôn của Mĩ và Pháp, trước hết là để khẳng định Nhân quyền và Dân quyền là tư tưởng lớn, cao đẹp của thời đại, sau nữa là “suy rộng ra…” nhằm nêu cao một lư tưởng về quyền b́nh đẳng, quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do của các dân tộc trên thế giới.
    Cách mở bài rất đặc sắc, từ công nhận Nhân quyền và Dân quyền là tư tưởng thời đại đi đến khẳng định Độc lập, Tự do, Hạnh phúc là khát vọng của các dân tộc. Câu văn “Đó là những lẽ phải không ai chối căi được” là sự khẳng định một cách hùng hồn chân lí thời đại: Độc lập, Tự do, Hạnh phúc, B́nh đẳng của con người, của các dân tộc cần được tôn trọng và bảo vệ.
    Cách mở bài rất hay, hùng hồn trang nghiêm. Người không chỉ nói với nhân dân Việt Nam ta, mà c̣n tuyên bố với thế giới. Trong hoàn cảnh lịch sử thời bấy giờ, thế chiến 2 vừa kết thúc, Người trích dẫn như vậy là để tranh thủ sự đồng t́nh ủng hộ của dư luận tiến bộ thế giới, nhất là các nước trong phe Đồng minh, đồng thời ngăn chặn âm mưu tái chiếm Đông Dương làm thuộc địa của Đờ Gôn và bọn thực dân Pháp hiếu chiến, đầy tham vọng.
    2. a. Bản cáo trạng tội ác thực dân Pháp.
    – Vạch trần bộ mặt xảo quyệt của thực dân Pháp “lợi dụng lá cờ tự do, b́nh đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta”.
    – Năm tội ác về chính trị: 1- tước đoạt tự do dân chủ, 2- luật pháp dă man, chia để trị, 3- chém giết những chiến sĩ yêu nước của ta, 4- ràng buộc dư luận và thi hành chính sách ngu dân, 5- đầu độc bằng rượu cồn, thuốc phiện.
    – Năm tội ác lớn về kinh tế: 1- bóc lột tước đoạt, 2- độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng, 3- sưu thuế nặng nề, vô lư đă bần cùng nhân dân ta, 4- đè nén khống chế các nhà tư sản ta, bóc lột tàn nhẫn công nhân ta, 5- gây ra thảm họa làm cho hơn 2 triệu đồng bào ta bị chết đói năm 1945.
    – Trong ṿng 5 năm (1940 – 1945) thực dân Pháp đă hèn hạ và nhục nhă “bán nước ta 2 lần cho Nhật”.
    – Thẳng tay khủng bố Việt Minh; “thậm chí đến khi thua chạy, chúng c̣n nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”.
    b. Quá tŕnh đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta
    – Từ mùa thu năm 1940, nước ta đă thành thuộc địa của Nhật chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Nhân dân ta đă nổi dậy giành chính quyền khi Nhật hàng Đồng minh.
    – Nhân dân ta đă đánh đổ các xiềng xích thực dân và chế độ quân chủ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hoà. Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị.
    – Chế độ thực dân Pháp trên đất nước ta vĩnh viễn chấm dứt và xoá bỏ.
    – Trên nguyên tắc dân tộc b́nh đẳng mà tin rằng các nước Đồng minh “quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”:
    “Một dân tộc đă gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đă gan góc về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do. Dân tộc đó phải được độc lập.
    Phần thứ hai là những bằng chứng lịch sử không ai chối căi được, đó là cơ sở thực tế và lịch sử của bản Tuyên ngôn độc lập được Hồ Chí Minh lập luận một cách chặt chẽ với những lí lẽ đanh thép, hùng hồn.
    3. Lời tuyên bố với thế giới
    – Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và sự thật đă thành một nước tự do, độc lập (từ khát vọng đến sự thật lịch sử hiển nhiên)
    – Nhân dân đă quyết tâm giữ vững quyền tự do, độc lập ấy (được làm nên bằng xương máu và ḷng yêu nước).

    Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử vô giá của dân tộc ta, thể hiện phong cách chính luận của Hồ Chí Minh

    1. Cùng với bài thơ “Sông núi nước Nam” của Lư Thường Kiệt, “B́nh Ngô đại cáo” của Nguyễn Trăi, bản “Tuyên ngôn độc lập”, phản ánh đúng diện mạo tinh thần và truyền thống chống xâm lăng của dân tộc Việt Nam trong trường kỳ lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước.
    2. Một lối viết ngắn gọn (950 từ). Có câu văn 9 từ mà nêu đủ nêu đúng một cục diện chính trị: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”. Những bằng chứng lịch sử về 10 tội ác của thực dân Pháp và quá tŕnh đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta là không ai chối căi được. Sử dụng điệp ngữ tạo nên những câu văn trùng điệp đầy ấn tượng: “Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương ṇi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”. Cách dùng từ sắc bén: “cướp không ruộng đất”, “giữ độc quyền in giấy bạc”, “quỳ gối đầu hàng… rước Nhật”, thoát ly hẳn… xoá bỏ hết… xoá bỏ tất cả…”. Hoặc “chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”, v.v…
    Nghệ thuật lập luận chặt chẽ, đanh thép, hùng hồn: “Một dân tộc đă gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay/ một dân tộc đă gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít mấy năm nay → dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!” Một luận điểm, một lư lẽ được tŕnh bày bằng 2 luận cứ, dẫn đến 2 kết luận khẳng định được diễn đạt trùng điệp, tăng cấp.
    Tóm lại, “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh góp phần làm giàu đẹp lịch sử và nền văn học dân tộc, tô thắm tinh thần yêu nước, khát vọng độc lập, tự do của nhân dân ta.

    Tác giả và tác phẩm

    Kỳ thi chọn HSG quốc gia lớp 12 THPT năm 2010

    BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
    Số: 216/KTKĐCLGD
    V/v Thông báo kết quả giải Kỳ thi chọn HSG quốc gia lớp 12 THPT năm 2010

    Click xem kết quả của Đồng Tháp

    <Trở về trang chủ>

    CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
    Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

    Hà Nội, ngày 30 tháng 3 năm 2010
    Kính gửi:
    – Các sở giáo dục và đào tạo;
    – Đại học Quốc gia Hà Nội;
    – Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh;
    – Các trường đại học có khối lớp THPT chuyên;
    – Trường Phổ thông Vùng cao Việt Bắc.
    Thực hiện Quy chế thi chọn học sinh giỏi, Ban chấm thi kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia lớp 12 THPT năm 2010 đã hoàn tất việc chấm thi, lên điểm.
    Cục Khảo thí và Kiểm định CLGD thông báo tới các đơn vị danh sách thí sinh đoạt giải đã được Lãnh đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt.
    Đề nghị các đơn vị khẩn trương thông báo kết quả thi đến thí sinh. Nếu phát hiện sai sót về các thông tin của thí sinh (như họ, tên hoặc tên đệm, ngày tháng năm sinh, trường…), cần gửi ngay công văn đề nghị chỉnh sửa về Bộ (Cục Khảo thí và Kiểm định CLGD) trước ngày 07/4/2010 để kịp thời in và cấp Giấy chứng nhận cho thí sinh.
    Đối với trường hợp thí sinh xin phúc khảo bài thi, các đơn vị cần đối chiếu để đảm bảo đủ điều kiện đã quy định trong Quy chế thi chọn học sinh giỏi. Trước ngày 15/4/2010, các đơn vị phải gửi về Cục Khảo thí và Kiểm định CLGD danh sách đề nghị phúc khảo và kinh phí phúc khảo do thí sinh nộp theo quy định hiện hành.
    Nếu có thắc mắc cần giải đáp, liên hệ với Cục Khảo thí và Kiểm định CLGD theo số fax 04.38683700; điện thoại 04.38683992, 04.38684825 và 0914502621 (Ông Nguyễn Duy Kha, Trưởng phòng Khảo thí)./.

    Nơi nhận:
    – Như trên;
    – TT. Nguyễn Vinh Hiển (để b/c);
    – Lưu: Cục KTKĐCLGD. KT. CỤC TRƯỞNG
    PHÓ CỤC TRƯỞNG

    (đã ký)

    Trần Văn Nghĩa

    Công bố cấu trúc đề thi năm 2010

    <Trở về trang chủ>

    Bộ Giáo dục và Đào tạo thông báo về các môn thi của Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2010 như sau:

    Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2010 được tổ chức vào các ngày 02, 03 và 04 tháng 6 năm 2010 với 6 môn thi bắt buộc.

    1. Đối với Giáo dục trung học phổ thông
    Thi 6 môn: Ngữ văn, Toán, Ngoại ngữ, Hoá học, Lịch sử, Địa lí; trong đó, các môn: Ngoại ngữ, Hoá học thi theo hình thức trắc nghiệm. Với môn Ngoại ngữ, thí sinh phải thi một trong các thứ tiếng: Tiếng Anh, Tiếng Nga, Tiếng Pháp, Tiếng Trung Quốc, Tiếng Đức, Tiếng Nhật; thí sinh không theo học hết chương trình trung học phổ thông hiện hành hoặc có khó khăn về điều kiện dạy-học thì được thi thay thế bằng môn Vật lí )thi theo hình thức trắc nghiệm).

    2. Đối với Giáo dục Thường xuyên
    Thi 6 môn: Ngữ văn, Toán, Vật lí, Hoá học, Lịch sử, Địa lí; trong đó, các môn: Vật lí, Hoá học thi theo hình thức trắc nghiệm.

    Bộ Giáo dục và Đào tạo yêu cầu các đơn vị thông báo nội dung trên đến các cơ sở giáo dục thuộc phạm vi quản lý để thực hiện./.

    Bộ Giáo dục và Đào tạo trân trọng giới thiệu “Cấu trúc đề thi môn Toán, Vật lí, Hoá học, Sinh học, Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí, Ngoại ngữ tốt nghiệp THPT và thi tuyển sinh ĐH, CĐ năm 2010”.

    Cấu trúc đề thi 2010 – Tải về